THẤT
ĐẠO HIỆP HÀNH
(Bảy “con đường hiệp hành” trong áp dụng mục vụ)
Dẫn nhập:
Ngày
10.10.2021, tại Giáo đô Rôma, Giáo Hội hoàn vũ đã long trọng khai mạc Thượng Hội
Đồng Giám Mục thường kỳ lần thứ XVI mà chủ đề được chọn làm tâm điểm để nghị
trình trong suốt tiến trình Thượng Hội Đồng (tháng 10/2021 – tháng 10/2023) đó
là: HƯỚNG TỚI MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA VÀ SỨ VỤ[1].
Trước
hết, khái niệm “hiệp hành” (synodality, synodalité) không phải là mới trong
kho tàng tư tưởng và ngôn ngữ của Hội Thánh. Riêng tại Việt Nam, để dịch nghĩa
từ “Synodality” (Anh ngữ), “Synodalité” (Pháp ngữ) sang tiếng Việt thì có một số
người với một số từ được chọn dịch như:
- Dịch
giả Vũ Văn An: dùng từ “Đồng Nghị”[2] hoặc “Đồng Bộ”[3].
- Dịch
giả Lê Công Đức: dùng từ “Liên Hợp”[4].
- Một
dịch giả ẩn danh: dùng từ “Hội Đồng”[5].
Riêng
từ “Hiệp
Hành” được HĐGMVN sử dụng lần đầu tiên trong bản dịch Việt ngữ tông huấn
Christus Vivit (Chúa Kitô đang sống) với bản dịch của Đức Giám Mục Luy Nguyễn
Anh Tuấn và nhóm hiệu đính HĐGMVN: Một mục
vụ mang tính hiệp hành (synodalité):
Mục vụ giới trẻ phải mang tính “hiệp
hành” (synodale), nghĩa là có khả năng liên kết trong “một hành trình
chung”, điều đó bao hàm “sự quý trọng các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho mỗi
thành viên trong Giáo Hội theo ơn gọi và vai trò của mình, đồng thời sẽ thúc đẩy
mọi thành viên tham gia gánh vác trách nhiệm. […] (CKTĐS 206). Và hôm nay, từ
“Hiệp Hành” được sử dụng cách chính thức và thường xuyên trong các văn bản liên
quan đến Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XVI: “Hướng đến một Giáo Hội hiệp
hành”.
Thế
nhưng, bài viết nầy không nhằm dừng lại ở “khái niệm” hay “từ ngữ”; bởi vì cái
thói “sính chữ nghĩa, bắt bẻ ngôn từ, chẻ
sợi tóc ra làm tư…” có thể khiến chúng ta, Giáo Hội chúng ta… “chết lâm sàng trên cái mớ mỹ từ” đó mà
không có được một hành động cụ thể hay một kết quả mục vụ thực tiển nào ! Và
đây chính là điều được Thượng Hội Đồng lưu ý ngay từ đầu: “Hãy nhớ rằng mục đích của Thượng Hội Đồng, và do đó của cuộc thỉnh ý
này, không nhằm tạo ra các tài liệu, mà là “để gieo mầm ước mơ, rút ra các lời
tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết
thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học
hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai mở trí tuệ, sưởi ấm
trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay” (TLCB 32).
Và
sau đây là một số đề nghị như những “con đường hiệp hành”, những giải pháp mục
vụ mang chiều kích “hiệp hành” để áp dụng cụ thể vào nhịp sống dân Chúa hôm nay:
1. Hiệp hành kiểu “Giang Nam thất quái”[6] trong “Anh hùng xạ
điêu” của Kim Dung: Hiệp hành trong mục vụ giáo dục – đào tạo.
Ai
đã từng đọc truyện kiếm hiệp của tác giả Kim Dung, đặc biệt, cuốn trường thiên
tiểu thuyết “Anh hùng xạ điêu”, đều không quên nhóm hành hiệp giang hồ xuất hiện
ngay chương đầu của câu chuyện: Giang Nam
thất quái hay Giang Nam thất hiệp. Đó là nhóm bảy vị hiệp lữ giang hồ ở
Giang Nam gồm: Đại hiệp Phi thiên biển đức Kha Trấn Ác bị mù, nhị hiệp Diệu thủ
thư sinh Chu Thông, tam hiệp Mã vương thần Hàn Bảo Câu, tứ hiệp Nam sơn tiểu tử
Nam Hi Nhân, ngũ hiệp Tiểu di đà Trương A Sinh, lục hiệp Náo thị hiệp ẩn Toàn
Kim Phát, thất (nữ) hiệp Việt nữ kiếm
Hàn Tiểu Oanh.
Bảy
nhân vật nầy đã chơi thân với nhau từ thời niên thiếu; và khi trưởng thành đã kết
nghĩa thâm giao bạn hữu, sống chết có nhau cùng hành hiệp trượng nghĩa. Do một
cuộc “ân oán giang hồ”, nhóm Giang Nam thất quái cùng với đạo sĩ Khưu Xứ Cơ thuộc
phái Toàn Chân, giao kết với nhau: mỗi bên sẽ tìm cho được hai bà mẹ đang mang
thai thất lạc: Lý Bình vợ của Quách Thiếu Thiên và Bao Tích Nhược vợ của Dương
Thiết Tâm, cả hai mất tích sau vụ cả hai nhà bị kiếp nạn, hai phu quân, một chết
một bị thương nặng và cũng mất tích. Giang Nam thất quái tìm Lý Bình để bảo bọc
dạy dỗ cho Quách Tỉnh (con của Quách Thiếu Thiên) và Khưu Xứ Cơ tìm Bao Tích
Nhược và dạy dỗ cho Dương Khang (con của Dương Thiết Tâm).
Cuối
cùng, Giang Nam thất hiệp đã tìm được mẹ con Quách Tỉnh tận miền Mông Cổ xa xôi
và đã dày công suốt 18 năm trường để đào tạo cho Quách Tỉnh, không những võ
công mà còn dạy chữ “Lễ”, tức cách ứng xử “làm người”, người quân tử, người trượng
nghĩa. Chính nhờ “Bảy Vị Sư phụ” đạo
đức, tận tâm, hết tình hết nghĩa nầy, Quách Tỉnh sau 18 năm, đã trở nên một
thanh niên trưởng thành với đầy đủ nhân cách, phẩm hạnh cùng với bản lãnh võ
công cao cường…
Trong
khi đó, đạo sĩ Khưu Xứ Cơ, cũng tìm gặp được mẹ con Dương Khang, nhưng trớ trêu
lại ở nơi cung đình xa hoa phú quý của người Kim, đang là nước địch thù của dân
Tống. Và vì chỉ có thể dạy võ công mà không có cơ hội để “dạy làm người” dạy “Lễ”,
nên sau nầy Dương Khang đã trở nên một con người bại hoại và đã bị chết thảm do
chính những hành vi thương luân bại lý của mình.
Ngẫm
chuyện: với 7 vị sư phụ, đồng tâm hiệp lực, để suốt 18 năm dạy chỉ 1 người cả
văn lẫn võ, cả “ngón nghề để phòng thân” và “nghệ thuật để làm người”: đó không
là một bài học đắt giá cho “mục vụ giáo dục-đào tạo” của chúng ta hôm nay sao !
Liệu các ban Giám Đốc các chủng viện, các ban Đào tạo của các Dòng tu có trở
thành một khối “huynh đệ cốt tử”, đồng tâm hiệp lực, đồng chí tận cùng như
“Giang Nam thất hiệp” để kiên trì dài lâu đào tạo ra những con người tốt đẹp,
trượng nghĩa, như Quách Tĩnh ! Trong chương trình “mục vụ hiệp hành” của Hội
Thánh hôm nay, thiết tưởng phải tập chú ngày đến chiều kích hiệp hành trong
công tác giáo dục. Chúng ta không thể có những mục tử, những linh mục, tu sĩ có
phẩm chất “hiệp hành” nếu họ được đào tạo bởi những nhóm người chia rẽ, cá
nhân, thiếu hiệp nhất… Đó là chưa kể, khi họ phải chứng kiến chính những nhà
đào tạo gây gương mù gương xấu về sự hiệp nhất và đức bác ái yêu thương của Tin
Mừng ! Dĩ nhiên, khi nói đến “mục vụ giáo dục – đào tạo”, không chỉ dừng lại ở
môi trường chủng viện hay Dòng tu, mà liên quan đến mọi công cuộc giáo dục và
đào tạo nhân sự của toàn thể Dân Chúa, của Giáo phận, giáo xứ…
Đây
phải chăng cũng chính là nội dung ý nghĩa của “câu hỏi thứ 10” trong “Thập Vấn”
mà tài liệu Vademecum đã gợi ý: “Cộng đồng Giáo Hội chúng ta đào tạo những
con người ngày càng có khả năng “cùng nhau cất bước hành trình”, lắng nghe
nhau, dấn thân vào sứ vụ và tham gia đối thoại như thế nào? Chúng ta đào tạo thế
nào để thúc đẩy sự phân định và thực thi quyền bính theo phương cách hiệp
hành?” (VADEMECUM 5.3/10).
2. Hiệp hành kiểu “Bóng đá tổng lực” hay “Cơn lốc màu da cam” của Hà Lan[7]:
Hiệp
hành trong Mục vụ chỉ huy và điều phối nhân sự:
Một trong những ấn
tượng sâu sắc nhất trong lịch sử các kỳ “thế vận bóng đá” (world cup), đó là
hình ảnh “Cơn lốc màu da cam” và cuộc
trình diễn ngoạn mục và đầy thuyết phục của chiến thuật “bóng đá tổng lực” được
đội bóng của huấn luyện viên Rinus Michels, đội Hà Lan, thể hiện trên sân vận động
Munchen Tây Đức trong trận chung kết mùa World cup 1974.
Gần như cho tới
trước năm 1974, chiến thuật của hầu hết các đội bóng trên thế giới đều áp dụng,
đó là “phân chia đội hình với các trách nhiệm cụ thể”: tiền đạo, tiền vệ, hậu vệ,
thủ môn… ai lo phận nấy. Công việc ghi bàn để đem về chiến thắng quyết định hầu
hết là dành cho các tiền đạo giỏi; và
vì thế, những vận động viên nầy thường “tả xung hữu đột” gần như đơn độc trước
hàng phòng ngự của đối phương…
Nhưng trong trận
chung kết World cup 1974 thì khán giả thế giới đã mãn nhãn đến sững sờ, khi
trên “thảm cỏ xanh của sân vận động thế vận Munchen (Olympiastation, Munchen)”
bị tràn ngập, bao phủ bởi một “khối vàng cam” khi lên, khi xuống, khi tản ra,
khi xúm lại, như một “cơn lốc” hoà quyện; đến độ, không ai có thể đoán được cầu
thủ nào là tiền đạo, tiền vệ, trung quân, hậu vệ ! Bởi vì, trừ thủ môn, cả 10 cầu
thủ trên sân đều liên tục hoán chuyển cho nhau ở bất cứ vị trí nào, nhiệm vụ
nào. Và đó chính là “bóng đá tổng lực”
(Total Football), nghĩa là một chiến thuật đá bóng dựa trên lý thuyết căn bản:
mọi cầu thủ đều tham gia như nhau, hết
mình ở bất cứ vị trí nào, công cũng như thủ, được liên tục hoán chuyển, để làm
nên một “sức mạnh tổng hợp”, toàn đội, chứ không chú trọng hoặc ỷ lại vào một
ít “siêu sao”[8].
Đó không là một
cách diễn tả rõ ràng và cụ thể cho ý nghĩa “Hiệp Hành” đó sao ! Trong Giáo Hội
chúng ta hôm nay, việc phối trí trách nhiệm, phân chia công tác… rất nhiều khi
vẫn còn dựa trên “chiến thuật cũ”: mánh mung, đơn lẽ; kẻ làm chết xác, người
nghỉ tà tà; đôi khi, linh mục không tín nhiệm đủ giáo dân, chuyện gì cũng “bao
cân”, hoặc quanh quẩn chỉ tin cẩn một số người thân tín, đến độ làm giáo dân
nãn lòng, hết muốn cọng tác… ; và thế là, cả cộng đoàn đi xuống, mệt mỏi, bệ rạc,
phân rẽ…
Nhưng cuối cùng,
điều quan trọng mà chúng ta không được quên về “Cơn lốc mà da cam”, đó là vai
trò của huấn luyện viên Rinus Michels[9].
Vâng, người huấn luyện, người điều phối, người thổi hơi, người quy tụ, gợi hứng…
để tất cả các vận động viên đều “hiệp hành” thi đấu và dành chiến thắng cuối
cùng, người đó thật là quan trọng.
Chúng
ta đang là những ai và áp dụng “chiến thuật” nào trên các “vận động trường mục
vụ” của Hội Thánh ? Và đây cũng chính là “câu hỏi thứ 8” trong “Thập Vấn” mà
tài liệu VADEMECUM gợi ý: “Làm thế nào để cộng đoàn Giáo hội chúng ta
nhận ra các mục tiêu phải theo đuổi, con đường để đạt tới và những bước đi phải
thực hiện? Cách hành sử uy quyền hay cai quản trong Giáo hội địa phương của
chúng ta thế nào? Việc thực hiện cách làm việc theo nhóm và tinh thần đồng
trách nhiệm thì thế nào? Việc đánh giá được chỉ đạo thế nào và ai chỉ đạo? Các
thừa tác vụ và trách nhiệm của giáo dân được khích lệ/xúc tiến ra sao? Chúng ta đã có những kinh nghiệm hiệp hành
sinh hoa kết quả/hiệu quả ở cấp địa phương hay chưa? Các đội ngũ hiệp hành hoạt
động ra sao ở cấp Giáo hội địa phương (các hội đồng mục vụ giáo xứ, hội đồng
linh mục, v.v…)? Chúng ta có thể đẩy mạnh sự tiếp cận mang tính hiệp hành nhiều
hơn trong sự tham gia và lãnh đạo của chúng ta thế nào?” (VADEMECUM 5.3/8).
3. Hiệp hành kiểu “Tiếng trống Drum Tao” của người Nhật, hay Ban nhạc SIERVAS của các nữ
tu Dòng Servants tại Peru[10]: Hiệp hành trong mục vụ văn hóa – nghệ thuật:
Tại các sân khấu
và tụ điểm âm nhạc, người trẻ luôn chiếm đa số về lượng khán giả cũng như thành
phần nghệ sĩ biểu diễn. Nhiều ban nhạc, ca sĩ trẻ rất thành công và thành danh.
Trong số đó, có một “đội trống” mang tên “Drum Tao” của Nhật Bản đã khiến cả thế
giới ngã nón thán phục mỗi khi chiêm ngưỡng họ trình diễn.
Ngoài tính nghệ
thuật biểu diễn trống độc đáo, đầy sáng tạo, nghệ thuật, linh động, mang “dáng
đứng” mạnh mẽ, oai hùng, xuất thần… theo phong cách “Samurai” của xứ sở “Mặt trời”,
điều đáng nói chính là “môi trường sống
và huấn luyện” của ban trống nầy.
Thật vậy, ban trống
này, từ khi được thành lập năm 1993, đã chọn một ngôi làng gần vườn quốc gia
Aso-Kuju trên đảo Kyushu và đặt tên cho nơi đây là “Grandioso” (Một từ ngữ âm
nhạc có nghĩa hùng tráng), để toàn bộ hàng trăm thành viên cùng sống chung, tập
luyện, sáng tác, dựng bài… theo một kỷ luật khe khắt, chẳng khác nào một “tu viện”[11].
Sống chung, đam
mê chung, tập luyện chung và với một kỷ luật chung… phải chăng nhờ cái tính
“chung” đặc biệt đó mà đội trống Drum Tao đã tồn tại gần 2 thập kỷ và vẫn còn
là một đội trống có sức hấp dẫn nhất trên thế giới hôm nay.
Nhân tiện nói đến
đội trống “Drum Tao” của Nhật Bản, chúng ta đừng quên một Ban nhạc đặc biệt đã
gây ấn tượng lớn trong cuộc Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 34 tại Panama: Đó
là ban nhạc Rock and Roll mang tên SIERVAS (Tiếng Tây ban Nha có nghĩa là các
tôi tớ) của các nữ tu Dòng Servants of the Plan of God, được thành lập năm 2014
tại Lima, bao gồm 11 nữ tu tại Peru và
các nữ tu khác đến từ 5 quốc gia: Nhật Bản, Ecuador, Trung Quốc, Costa Rica và
Chí Lợi. Ban nhạc “nữ tu quốc tế” nầy đã đi trình diễn tại 11 quốc gia và luôn
trung thành với tôn chỉ: dùng âm nhạc để rao giảng Tin mừng[12].
Trong lãnh vực văn
hóa nghệ thuật, có lẽ mảng “âm nhạc” luôn là môi trường hấp dẫn và quy tụ nhiều
người. Giới nghệ sĩ Công Giáo đang dấn thân trong môi trường nầy cũng không hề
nhỏ. Tuy nhiên, tại Việt Nam chúng ta, hầu hết những đối tượng nầy đều hoạt động
riêng lẽ, cá nhân, tự phát tự diệt…; và nhất là thiếu một năng lực “làm chứng”,
có khi lại là “phản chứng”. Cần phải có kế hoạch “hiệp hành” để quy tụ, hướng dẫn,
đầu tư… hầu tạo điều kiện để họ được nâng đỡ, hiểu biết sứ mệnh và có được môi
trường thuận lợi để trở thành những khí cụ hữu hiệu trong công cuộc loan báo
Tin Mừng.
Đó là chưa kể
các loại hình văn hóa khác: văn học, văn
chương, kịch nghệ, điện ảnh, hội họa, kiến trúc, điêu khắc…, trong đó có những
bộ môn mà đã có thời Hội Thánh từng là kẻ “cầm chịch”, đi đầu; nhưng hôm nay, gần
như Giáo Hội đang chào thua, tụt hậu… Việc thực thi sứ mệnh loan báo Tin Mừng
chỉ có thể thành công khi chúng ta vận dụng thành công các loại hình văn hóa
nghệ thuật đi vào đời sống đức tin. Trong “nghệ thuật đồng hành của Giáo Hội”
không một “bộ môn nào”, một “đối tượng nào”, một ‘lãnh vực nào” bị bỏ lại bên lề.
Đó là điều được Thượng Hội Đồng nêu lên nơi “câu hỏi thứ nhất” trong “Thập Vấn”
của VADEMECUM: “Trong Giáo Hội địa phương của chúng ta, ai là những người “cùng nhau cất
bước hành trình”? Ai là những người đường như xa hơn? Là những người đồng hành,
chúng ta được kêu gọi để thăng tiến như thế nào? Các nhóm và cá nhân nào vẫn
còn ở bên lề?” (VADEMECUM 5.3/1).
4. Hiệp hành kiểu “lắng nghe tiếng
khóc” hay “em ngã chị nâng” của
Thế vận hội khuyết tật Seattle 2018: Hiệp
hành khi biết lắng nghe và dìu nhau tiến bước[13].
Trong lịch sử
thi đấu của các đại hội Olympic thế giới cũng như khu vực, đặc biệt, thế vận hội
dành cho những người khuyết tật (Paralympic Games)[14],
có một kỳ “thế vận hội đặc biệt” được tổ chức tại Seattle, tiểu bang
Washington, Hoa Kỳ năm 2018, đã để lại trong lòng khán giả thế giới một ấn tượng
sâu sắc, cảm động và đầy tính nhân văn. Và đây là câu chuyện cảm động đó:
“Tại
Thế Vận Hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có 9 vận động viên
đều bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất
phát để tham dự cuộc thi chạy đua 100m. Khi cờ hiệu phất lên, tất cả đều lao đi
với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục ngay sát vạch
xuất phát. Đầu gối của cậu đập mạnh xuống đường, da của cậu bị trầy xước, rớm
máu. Và cậu bật khóc. Khi tám người kia nghe
tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi, họ quay trở lại. Tất cả,
không trừ một ai! Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:
“Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn”. Cả 7 người còn lại cùng ngồi xuống quanh cậu
bé, ánh mắt lộ rõ sự lo lắng. Một lúc, cô gái cất tiếng hỏi tiếp: “Em đã thấy đỡ
hơn chưa?”. Cậu bé đưa tay lau nước mắt, mỉm cười gật đầu. Cả chín người cùng đứng dậy, họ khoác tay nhau cùng sánh bước về vạch
đích.”[15].
Vâng, biết “lắng
nghe” và không để ai bị bỏ lại đằng sau, tất cả cùng dìu nhau để cùng về đích,
đó lại không phải là thể hiện sự “hiệp hành” đúng nghĩa sao ! Có lẽ đây là điều
mà Thượng Hội Đồng đang ưu tiên lưu ý qua những diễn ngữ: “Chúng ta là dấu chỉ cho một Hội
Thánh lắng nghe và lữ hành”, “Vượt khỏi tai họa giáo sĩ trị”, “Chữa trị virus tự
mãn”, (VADEMECUM 2.3), “Cám dỗ chỉ lắng nghe những thành phần hoạt
động trong Giáo Hội” (VADEMECUM 2.4/9)….
Chắc chắn, khi đề
cập đến những “tiêu cực” đó, Giáo Hội đã cảm nhận từ những kinh nghiệm đau
thương của chính mình, của những cộng đoàn Kitô hữu trong Hội Thánh. Thật vậy,
chúng ta không chối cải, ở giữa lòng Giáo Hội vẫn còn nhiều cộng đoàn, Hội
Dòng… mà ở đó thói “cha chú, cửa quyền, độc tài, thiên vị, kiêu căng…” nơi những
người lãnh đạo (cha xứ, Bề trên Dòng, Tu sĩ phụ trách cộng đoàn…) vẫn đang hiện
hữu và trở thành những cái “ách” nặng nề đè nặng trên đôi vai của nhiều anh chị
em tín hữu, các tu sĩ…
Chính vì thế, “Lắng
nghe” chính là một trong những “từ khóa” của Thượng Hội Đồng; và có thể nói được,
nội dung ý nghĩa đó được tập họp nơi “câu
hỏi thứ hai” trong “THẬP VẤN” của VADEMECUM: “Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta
qua những tiếng nói mà đôi khi chúng ta không nhận ra như thế nào? Giáo dân, đặc
biệt là phụ nữ và giới trẻ, được lắng nghe ra sao? Điều gì làm chúng ta dễ lắng
nghe hoặc ngăn cản chúng ta lắng nghe? Chúng ta lắng nghe những người ở vùng
ngoại biên như thế nào? Những đóng góp của các nam nữ tu sĩ được đón nhận thế
nào? Khả năng lắng nghe của chúng ta có những hạn chế nào, đặc biệt là lắng
nghe những người có quan điểm khác với chúng ta? Nơi chốn nào dành cho tiếng
nói của những người thiểu số, đặc biệt những người trải qua cảnh đói nghèo, ở
bên lề hay bị xã hội loại trừ?” (VADEMECUM 5.3/2).
5. Hiệp hành kiểu “Mùa
Xuân Á Rập” hay “Phong trào Dù vàng”: Hiệp hành trong mục vụ truyền thông[16]:
Có một “sân
chơi” có thể làm nên lịch sử của một dân tộc, khai sinh một hệ thống chính trị
mới, và phần nào tương đồng như một cuộc cách mạng. Danh từ chuyên môn mà các
nhà “chấp pháp” và bình luận xã hội thời nay đặt tên cho loại “sân chơi” này đó
là “bất tuân dân sự” (civil
disobedience)[17] phi bạo động, mà thể hiện cụ
thể đó là biểu tình, xuống đường, tập họp mít-ting…
Vâng, cuộc “bất
tuân dân sự” khởi đầu ngày 17.12.2010 với cuộc tự thiêu của chàng thanh niên da
màu Tunisia Mohamed Bouazizi, kéo theo hàng triệu bạn trẻ xuống đường thông qua
các mạng xã hội Facebook, Twitter… đã làm nên cuộc “cách mạng hoa lài” (Revolution of Jasmine)[18],
lần lượt cuốn phăng các chế độ độc tài chỉ trong vòng 1 năm (2011): Tunisia vào ngày 14 tháng 1, Ai Cập vào
ngày 11 tháng 2 và Libya vào ngày 20 tháng 10. Và đó chỉ là ba biến động
chính trị lớn nhất của thế giới Ả Rập, chưa kể những cuộc “bất tuân dân sự” rầm
rộ khác cũng tại các nước Ả Rập như Yemen, Jordan, Algérie, Mauritanie, Ả Rập
Xê út, Oman, Sudan, Syria, Iraq, Maroc…, đến đổi thế giới đã dùng chung một cụm
từ để chỉ sự kiện đáng lưu ý nầy vào thời điểm đó: “Mùa Xuân Ả Rập” (Arab Spring)[19].
Từ “Mùa Xuân Á Rập”
đầy biến động, những người trẻ Á Châu tiếp nối các bạn trẻ Ả Rập đã làm dậy lên
một cuộc “bất tuân dân sự” khác để đòi quyền tự chủ ở “trung tâm tài chánh” của
thế giới là thành phố Hồng Kông, một cựu thuộc địa của người Anh, vừa được trao
lại cho Trung Quốc lục địa với hiệp ước “Nhất Quốc lưỡng chế” (Một quốc gia hai
chế độ) vào ngày 1.7.1997.
Cũng thông qua mạng
xã hội, những người trẻ Hồng Kông đã làm cả thế giới ngạc nhiên khi thể hiện cuộc
“bất tuân dân sự” với số tham gia đông chưa từng thấy nhưng diễn ra trong hoà
bình, trật tự, sạch sẽ, văn minh…mà hầu như chưa tìm thấy nơi đâu trên thế giới.
Vâng, “phong
trào Dù vàng” (Yellow umbrella movement) của người trẻ Hồng Kông năm 20[20] hay cuộc xuống đường của gần 2 triệu
người “mặc áo thun đen” trong ngày 16.06.2019 để phản đối “Luật Dẫn Độ”[21], thực ra, không được điều
hành, chỉ đạo trực tiếp và cụ thể bởi một lãnh tụ nào, đảng phái nào… mà gần
như, các bạn trẻ đã cùng sẻ chia, liên lạc, phối kết hành động và tự nguyện phục
vụ thông
qua phương tiện kỷ thuật truyền thông, mạng xã hội, một “phương tiện”
mà các chế độ độc tài hoảng sợ, nếu không nói là căm thù. (Xem thêm hai bài viết:
1) “Mạng xã hội: nhận diện và định hướng
quản lý”[22] của PGS,TS NGUYỄN THẾ
KỶ - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam; 2) “Truyền thông xã hội đối với ổn định chính
trị, xã hội ở Việt Nam”[23] của VÕ VĂN THƯỞNG, Ủy viên
Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
Sở dĩ nhắc đến
“sân chơi” đặc biệt của giới trẻ: “Bất tuân dân sự” và ảnh hưởng của “quyền
lực thứ 5” (Kỷ thuật truyền thông - Mạng xã hội) là muốn nhắm đến chiều
kích hiệp hành thông qua phương tiện truyền thông hiện đại. Vâng, nếu không có
smartphone, iphone, ipad, internet, facebook, twitter, youtube, Google… thì làm
sao các bạn trẻ làm nỗi cuộc “cách mạng hoa lài” ở Ả Rập hay phong trào “Dù
vàng”, “áo đen” trong trật tự, sạch sẽ… ở Hồng Kông ? Ngày nay, quả thật, nói tới
chiến lược hiệp hành trong sinh hoạt mục vụ, đặc biệt, mục vụ giới trẻ, mà
không “đá đến” “thế giới kỷ thuật số, mạng xã hội”… thì e rằng, chúng ta đã quá
tụt hậu nếu không nói là “lạc dòng”, chẳng giống ai ! Dĩ nhiên cần phải “gạn đục
khơi trong” và định hướng sử dụng; nhưng không phải vì thế mà coi “mạng xã hội
là kẻ thù nguy hiểm” để cấm ngăn (như cái nhìn của Ban Tuyên Giáo Cọng sản)[24], hoặc chỉ nhìn khía cạnh
tiêu cực để bài bác (giới trẻ lên mạng chỉ là để câu “like”, câu “view”, sống ảo…)[25] thì cũng không là giải pháp
tối ưu.
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô trong tông huấn Christus Vivit đã dành nguyên 5 số (86-90) với chuyên
mục “Thế giới kỷ thuật số” để nhắc lại các điểm nhấn của chuyên đề nầy trong “Văn kiện kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục
XV”[26]. Và đây cũng là điều có liên
quan đến “câu hỏi thứ 3” trong “THẬP VẤN” mà tài liệu VADEMECUM đã khơi gợi
trong tiến trình Hiệp hành của Thượng Hội Đồng: “Trong Giáo Hội địa phương và
trong xã hội chúng ta, điều gì tạo điều kiện hay điều gì cản trở việc nói ra
cách can đảm, thẳng thắn và có trách nhiệm? Khi nào và cách nào để chúng ta nói
lên được những gì quan trọng đối với chúng ta? Mối tương quan với hệ thống truyền
thông địa phương (không chỉ với truyền thông Công Giáo) thì thế nào? Ai nói
thay cho cộng đồng Kitô hữu và họ được chọn thế nào?” (VADEMECUM 5.3/3).
6. Hiệp hành kiểu “Dân Làng Hồ” của các thừa sai truyền giáo cho anh em dân tộc Tây
nguyên: Hiệp hành trong mục vụ truyền giáo:
Trong
lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, có một khúc quanh quan trọng không thể bỏ qua
hay xem thường đó là “công cuộc mở đạo lên Tây Nguyên thời Đức Cha Stêphanô Cuénot
Thể (1802-1861). Sách “Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian” đã tóm tắt công
cuộc truyền giáo đầy gian nan khốn khó của các thừa sai bằng những dòng sau: “Các thừa sai sống giữa các anh em dân tộc,
giảng dạy và chia sẻ cuộc sống thiếu thốn khổ cực của họ”[27]. Tuy nhiên, để hiểu
hết sự khó khăn, tăm tối, thử thách, khổ đau, nguy hiểm…cùng những phương cách
loan báo Tin Mừng đầy hiệu quả, mà các vị thừa sai tiên khởi đã kinh qua thì
chúng ta phải đọc quyển nhật ký truyền giáo “Dân
Làng Hồ” của thừa sai Dourisboure. Ở đây, chỉ xin đơn cử một trích đoạn ngắn:
“Giữa muôn ngàn thử thách ấy, chúng tôi vẫn
sung sướng khi nghĩ rằng chúng tôi có mặt ở nơi đây là do Thánh ý của Chúa nhân
lành. Điều đó nâng đỡ lòng can đảm nơi chúng tôi và chúng tôi tìm thấy niềm an ủi
khi so sánh hoàn cảnh của mình với hoàn cảnh của Chúa Giêsu trong chuồng bò hôi
hám. Mỗi người chúng tôi thường nằm xoài người trên chiếc chiếu manh trải ở bốn
góc xung quanh bếp lửa giữa lều. Những ai lên cơn sốt thì cố mà chống chọi với
nó, những ai vừa nguôi cơn sốt thì cầu nguyện, cười đùa, hát thánh vịnh, trò
chuyện, hoặc hút thuốc. Ban ngày, ai được cơn sốt cho tạm nghỉ thì vào rừng kiếm
măng, hái rau, bứt lá cây, rễ cỏ, bất cứ thứ gì miễn là ăn được, đem về nấu
trong nồi đất để ăn với cơm, vốn là thực phẩm duy nhất của chúng tôi. Có một
hôm trúng mánh lớn: một thanh niên người Kinh trong đoàn bắt được một con cá to
bằng con cá trích ở suối, đây quả là một sự kiện. Cha Combes, với tư cách là Bề
trên, chia con cá thành bốn phần bằng nhau và mỗi người trịnh trọng đặt khúc cá
trên tô cơm của mình. Trái lại, cũng có đôi lần chúng tôi phải ăn chay hoàn toàn
vì mọi người đều đau một lượt, không có ai còn sức để thổi cơm…”[28].
Chúng
ta biết, nội hàm của khái niệm “Hiệp Hành” như Giáo Hội cắt nghĩa, bao gồm ba
tác động: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ.
Cách đây gần 200 năm, khi các thừa sai đi mở đạo cho những người anh em dân tộc,
chắc chắn các ngài chưa có được trong tay “tài liệu chuẩn bị” hay cẩm nang “Vademecum”
để được hướng dẫn những “nguyên tắc hiệp hành” như chúng ta hôm nay. Nhưng
trong cách ứng xử mục vụ và nỗ lực truyền giáo, quả thật, các ngài đã thực thi
nguyên tắc nầy cách trọn hảo: đồng hành với dân, sống với dân, đồng cam cọng khổ
với dân, để dân chung chia trách nhiệm, cọng tác… Đó không là cách thực thi
“câu hỏi thứ 5” trong “THẬP VẤN” của VADEMECUM đó sao: “Vì tất cả chúng ta đều là các
môn đệ truyền giáo, mọi người đã được rửa tội được mời gọi tham gia vào sứ vụ
này của Hội thánh thế nào? Điều gì cản trở những người đã được rửa tội không
tích cực tham gia sứ vụ này? Những lãnh vực nào của sứ vụ mà chúng ta đang bỏ mặc?
Cộng đoàn hỗ trợ ra sao cho những thành viên của mình tham gia phục vụ xã hội
theo những cách thức khác nhau (công tác xã hội và hoạt động chính trị, nghiên
cứu khoa học, giáo dục, cổ võ công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người, chăm
sóc môi trường, v.v…)? Hội thánh đã giúp những thành viên này thế nào để họ phục
vụ xã hội theo cách thức truyền giáo? Sự phân định những chọn lựa truyền giáo
được thực hiện thế nào và bởi ai?”
(VADEMECUM 5.3/5).
7. Hiệp hành kiểu “dâng Thánh lễ ở chùa” như linh mục Pio Ngô Phúc Hậu hay “chung tay làm thiện nguyện mùa Covid”
như nữ tu Hồng Quế: Hiệp hành trong mục vụ Đại kết:
Có
thể liên quan đến “hiệp hành” qua hai câu chuyện sau:
-
Chuyện thứ 1: Trong “Nhật Ký Truyền giáo” của linh mục Pio Ngô Phúc Hậu có câu chuyện nầy:
“Núi Sam, … 1969
Mình
cùng với lớp đệ tứ lên cắm trại ở Núi Sam. Núi Sam vừa hùng vĩ vừa huyền bí. Thầy
trò leo trèo thỏa thích. Chụp hình lia lịa, và viếng Chùa. Ni sư thì hiền như
cây cỏ, học trò mình thì nghịch như ma. Chùa chiền đang yên tĩnh bỗng rộn lên
như hội chợ. Các ni sư không giận hờn, không xua đuổi. Dường như các ngài
thương mến học trò của mình hơn cả chính mình. Các ngài mỉm cười độ lượng trước
những trò chơi quỷ quái của chúng. Chùa chiền là thế : thiên nhiên yên tĩnh;
tâm hồn yên tĩnh. Đăng sơn chán thì hạ sơn. Hạ sơn để dâng thánh lễ. Dâng thánh
lễ ở đâu ? Mình vô chính điện.
–
Thưa Đại đức, trong chùa có chỗ nào thuận tiện, Đại đức cho tôi mượn chừng nửa
giờ để tôi dâng thánh lễ được không ?
– Ở
đây thì không tiện. Ở ngoài cổng có một phòng khách rộng lắm, linh mục có thể ở
đó và dâng lễ tự nhiên. Chùa cho mượn bàn để làm bàn thờ. Đèn của chùa, hoa của
chùa, chuông của chùa, chỉ có mình là của Chúa.
Lần đầu
tiên trong đời, mình dâng thánh lễ trong khuôn viên nhà chùa. Chúa ngự ở đây và
chắc chắn Chúa yêu thương nơi này. Từ phòng khách mình giang tay cầu nguyện, mắt
nhìn lên cao nhưng vẫn lo ra nhìn về chính điện. Ở đó tượng Phật to lớn ngồi
thiền giữa rừng hương nhang, yên tĩnh, thân thương”[29].
-
Chuyện thứ 2: Trong
cái thời đại dịch mà gần như ai cũng hoang mang, lo sợ; thậm chí có nhiều người
hoảng loạn, thất vọng và nguyền rủa…, thì đâu đó vẫn sáng lên những hình ảnh đẹp
của sự chia sẻ yêu thương, của tinh thần liên đới phục vụ đầy quả cảm, hy sinh,
vị tha, quảng đại; cả trên bình diện thế giới giữa nhiều quốc gia, lẫn trong những
mối tương quan bà con xa gần trong nước, thành phố, hay nơi chòm xóm láng giềng….
Trong những ngày “nước sôi lửa bỏng” của cách ly dịch
bệnh tại Sài Gòn, hình ảnh của nữ tu Công Giáo Maria Hồng Quế, bên cạnh những
Phật tử như cô Đào, Đại đức Thích Lệ Ngôn hay mục sư Tin Lành Phạm Đình Nhẫn
cùng sát cánh bên nhau mang lương thực sẻ chia đến những căn hộ đói khổ, nghèo
nàn, đã rực sáng lên như những “viền bạc” của tình liên đới giữa đám mây đen tối
của cách ly. Quả thật, như câu ngạn ngữ của người Tây phương: “Every dark cloud has a silver lining” (Mỗi đám mây đen đều có một viền
bạc). Chính
trong cái nhìn tích cực và đầy hy vọng đó mà có nhiều người đã cho rằng: Con
virus Covid đã mang con người lại gần nhau hơn, liên đới hơn, quý trọng mạng sống
hơn, khiêm tốn hơn trước những giới hạn và bất lực của phận người…
Qua “hai câu
chuyện”, đúng hơn, hai sự kiện vừa nêu, chúng ta có thể nói, dấu chỉ của “hiệp
hành” vẫn sáng lên, vẫn sống động giữa lòng Hội Thánh qua bao nhiêu cách ứng xử
mục vụ của các linh mục, nữ tu và bao nhiêu tín hữu âm thầm khác, đặc biệt
trong lãnh vực “Đại Kết”. Dẫu biết rằng, đó đây vẫn còn có những Kitô hữu, những
linh mục… mang tâm trạng hẹp hòi đố kỵ đối với những người anh em khác tôn giáo
cùng với tín ngưỡng của họ. Chính thái độ đó đã gây ra nhiều bức xúc, tự ái cho
nhiều người lương, người Phật tử; đồng thời, tạo nên những bức tường ngăn cách,
đố kỵ. Thực thi hiệp hành chính là cùng nhau nỗ lực thực hiện sứ mệnh “Đại Kết”,
một chiều kích không thể thiếu trong đời sống đức tin của Dân Chúa. Đây cũng
chính là “câu hỏi thứ 7” trong “THẬP VẤN” mà Vademecum đã nêu bật: “Cộng
đoàn Giáo hội chúng ta có những mối tương quan nào với các thành viên của các
truyền thống và tông phái Kitô giáo khác? Chúng ta chia sẻ điều gì và cùng đi với
nhau như thế nào? Chúng ta rút ra được những hoa trái nào từ việc cùng nhau bước
đi? Đâu là những khó khăn? Làm thế nào để chúng ta có thể cùng nhau đi bước tiếp
theo tiến về phía trước?” (VADEMECUM 5.3/7).
Kết
luận:
“Hiệp
Hành” là câu chuyện dài và rộng để toàn Dân Chúa kể cho nhau nghe và cùng nhau
thể hiện trong những ngày này cũng như trong tương lai. Có người cho rằng, với
ý nghĩa và mục tiêu trọng đại đã được gợi hứng từ Công Đồng Vatican II, hy vọng
“tiến trình Hiệp Hành” của Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XVI nầy sẽ như là một
“Vatican III” để một lần nữa canh tân và củng cố Giáo Hội. Đây không là “câu
chuyện thời sự” vụt đến rồi vụt đi như một “biến cố mục vụ” bình thường hay bất
thường, mà là một “tiến trình thiêng liêng” dành cho toàn Dân Chúa để sống và
thể hiện niềm tin, để canh tân và hoán cải, để xây dựng và lên đường…, như cách
kiến giải của Vademecum: “Trước hết và
trên hết, tiến trình hiệp hành là một tiến trình thiêng liêng. Đây không phải
là chuyện cứ máy móc thu thập dữ liệu hay tổ chức hàng loạt những cuộc hội họp
và thảo luận. Mục đích của việc lắng nghe mang tính chất hiệp hành là biện
phân, vì thế đòi hỏi chúng ta phải học biết và sử dụng nghệ thuật biện phân cá
nhân và cộng đoàn. Chúng ta lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe truyền thống đức tin
của chúng ta và lắng nghe những dấu chỉ thời đại để nhận biết những gì Chúa
đang nói với chúng ta. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mô tả hai mục đích tương thuộc của
tiến trình lắng nghe là: “Lắng nghe Thiên Chúa, để cùng với Ngài chúng ta có thể
nghe thấy tiếng kêu của dân Ngài; lắng nghe dân Ngài cho đến khi chúng ta hòa hợp
với ý muốn mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đón nhận ý muốn đó” (VADEMECUM 2.2).
Ước
mong “Thất đạo Hiệp hành” sẽ là một
que củi nhỏ để “bếp lửa hiệp hành”
cháy lên.
[1] Tiếng Anh: For a Synodal Church: Communion,
Participation, and Mission; tiếng Pháp: Pour une Église synodale: Communion, Participation et Mission
[2] UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ (INTERNATIONAL
THEOLOGICAL COMMISSION), Vũ Văn An dịch, Tính Đồng Nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo Hội (Synodality in the Life and Mission of the Church),
website http://ghhv.quetroi.net/60VUVANAN/TinhDongNghiTrongDoiSongVaSuMenhCuaGiaoHoi.pdf,
đăng tháng 11.2019.
[3] TÀI LIỆU LÀM VIỆC (INSTRUMENTUM LABORIS) của THĐGM XV, Vũ Văn An dịch,
website http://www.giaoly.org/vn/tai-lie%cc%a3u-lam-vie%cc%a3c-thuo%cc%a3ng-ho%cc%a3i-dong-ve-gioi-tre%cc%89/,
đăng ngày 02.01.2019, Số 140: “Hành trình đồng bộ, vốn là một “con đường
chúng ta cùng đi với nhau”, bao gồm một lời mời khẩn cấp để tái khám phá sự
phong phú trong căn tính “dân Chúa”, vốn là thuật ngữ để định nghĩa Giáo Hội
như dấu chỉ có tính tiên tri về sự hiệp thông trong một thế giới thường bị chia
rẽ và bất hòa xé nát”.
[4] ĐGH PHANXICÔ, Đức Kitô Hằng Sống
(Christus Vivit), Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng, Bản dịch của lm. Lê Công Đức,
pss, nxb Đồng Nai 2019, tr. 136.
[5] BRUNO LEPEU, Un Moment Mep, Để tỏ lòng tri ân, ôn lại kỷ niệm, hướng về
tương lai. Sài Gòn, 25-26.6.2019, Tính Hội Đồng trong truyền giáo: một phong
cách truyền giáo tại Châu Á, tr. 92.
[6] WIKIPEDIA, Giang Nam thất
quái, website Giang Nam thất quái – Wikipedia tiếng Việt.
[7] X. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIÊN, Mẹ
tôi là thế đấy, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2019, tr. 403-405.
[8] Xem thêm một số bài viết về “Bóng đá tổng lực”
(hoặc “tổng hợp”) của các tác giả với các đường link sau:
- TRẦN LONG, Top 5 lối chơi đã trở thành di sản của bóng
đá thế giới wesite
https://babil.info/top-5-loi-choi-da-tro-thanh-di-san-cua-bong-da-the-gioi/
- KINH THI, World Cup 1974: "Cơn lốc màu da
cam" làm say đắm lòng người, website
http://bongdaplus.vn/tin-bai/65/81840/world-cup-1974-con-loc-mau-da-cam-lam-say-dam-long-nguoi.bdplus
- MINH TÀI, Bóng đá tổng lực: Lịch sử ra đời và cách vận
hành, website https://spiderum.com/bai-dang/GOC-CHIEN-THUAT-BONG-DA-TONG-LUC-LICH-SU-RA-DOI-VA-CACH-VAN-HANH-fc8
[9] WIKIPEDIA, “Marinus ("Rinus") Jacobus Hendricus Michels (9 tháng 2
năm 1928 – 3 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ và huấn luyện viên người Hà
Lan. Ông cống hiến cả sự nghiệp của mình ở câu lạc bộ Ajax
Amsterdam, và sau đó là huấn luyện viên của câu lạc bộ này. Ông cũng là
thành viên của Hà Lan. Ông cũng từng có thời gian làm huấn luyện viên cho
đội tuyển quốc gia. Ông nổi tiếng với thành tích huấn luyện của mình, cùng Ajax
Amsterdam và giành cúp vô địch Tây Ban Nha với FC
Barcelona. Ông cùng đội tuyển Hà Lan đạt Á quân World Cup 1974 và
vô địch Euro 1988. Ông được coi là người phát minh ra lối chơi bóng
đá tổng lực vào thập niên 1970 chính điều đó đã khiến FIFA bầu
ông là huấn luyện viên xuất sắc nhất thế kỉ 20 vào năm 1999 và tờ France
Football năm 2019 bầu chọn là Huấn luyện viên xuất sắc nhất lịch sử”, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rinus_Michels
[10] GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Mẹ tôi là thế đấy, sđd, tr. 407-408.
[11] NGỌC HÀ, Trí thức
trẻ, website
http://cafebiz.vn/co-gi-o-ngoi-lang-nhat-ban-noi-ti-le-choi-con-kho-nhan-hon-ca-dh-harvard-ren-luyen-khac-kho-nhu-samurai-tat-ca-de-giu-hon-cho-tieng-trong-thieng-lieng-nay-20190322082636054.chn
[12] VŨ NHUẬN, website
http://vietcatholicsydney.net/vietcatho/newsdetail/Tin-Giao-Hoi11/Ban-nhac-Rock-and-Roll-cua-cac-nu-tu-se-trinh-dien-cho-DTC-tai-WYD-Panama-1564/
[13] X. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Mẹ
tôi là thế đấy, sđd, tr. 405-407.
[14] WIKIPEDIA, Thế
vận hội dành cho người khuyết tật, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF_v%E1%BA%ADn_h%E1%BB%99i_d%C3%A0nh_cho_ng%C6%B0%E1%BB%9Di_khuy%E1%BA%BFt_t%E1%BA%ADt
[15] THU PHẠM, Hãy
cùng nhau chiến thắng, website https://aba.edu.vn/hay-cung-nhau-chien-thang.html
[16] X. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Mẹ
tôi là thế đấy, sđd, tr.408-412.
[17] WIKIPEDIA, Bất
tuân dân sự, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A5t_tu%C3%A2n_d%C3%A2n_s%E1%BB%B1_(Henry_David_Thoreau)
[18] LÝ THÁI HÙNG, Lòng
dân và cuộc cách mạng hoa lại ở Tunisia, website
https://viettan.org/long-dan-va-cuoc-cach-mang-hoa-lai-tai-tunisia/
[19] WIKIPEDIA, Mùa
xuân Á rập, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9a_xu%C3%A2n_%E1%BA%A2_R%E1%BA%ADp
[20] WIKIPEDIA, Biểu
tình tại Hồng Kông 2014, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u_t%C3%ACnh_t%E1%BA%A1i_H%E1%BB%93ng_K%C3%B4ng_2014
[21] THIÊN AN, “Nhìn lại những cuộc
biểu tình 'chao đảo' Hong Kong hai thập kỷ qua” website
https://baomoi.com/nhin-lai-nhung-cuoc-bieu-tinh-chao-dao-hong-kong-hai-thap-ky-qua/c/31159295.epi
[22] PGS,TS NGUYỄN THẾ
KỶ, Mạng xã hội: nhận diện và định hướng
quản lý: “…Với bản chất “không biên giới”, bên cạnh lợi
thế gần như vô biên, thì những mặt trái, mặt tiêu cực của Internet cũng đặt ra
yêu cầu và thách thức không nhỏ cho công tác quản lý. Một số quốc gia đã dựng
lên các “biên giới ảo” trên nền Internet để kiểm soát “lãnh thổ của mình”. Chính
sách quản lý internet của Trung Quốc - nơi có trên 460 triệu người sử dụng, có
thể là một sự tham khảo cần thiết. Nước này phát triển Internet, mạng xã hội,
báo chí điện tử nội địa nhằm nâng cao đời sống tinh thần lành mạnh của người
dân, chiếm lĩnh thị trường trong nước, tiến mạnh ra và cạnh tranh với bên
ngoài. Họ chủ trương lập những “tường lửa”, thậm chí ngăn chặn toàn bộ các mạng
xã hội bên ngoài nếu xét thấy nguy hại cho công chúng trong nước. Đài RFA (ngày
2/2/2011) viết: “Dù cấm cửa thế nào chăng nữa thì Trung Quốc sẽ không bao giờ đủ
khả năng bịt miệng Facebook và Twitter cũng như các trang mạng xã hội khác. Trí
thức Trung Quốc một lúc nào đó sẽ tập hợp lại với nhau qua đường kết nối đầy sức
mạnh này”, website https://baoquocte.vn/mang-xa-hoi-nhan-dien-va-dinh-huong-quan-ly-74029.html
[23] VÕ VĂN THƯỞNG, Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị,
xã hội ở Việt Nam: “Nhìn lại các cuộc “cách mạng màu” hay các cuộc biểu tình bạo động mang
hơi hướng của “cách mạng màu” được hiện đại hóa trong mấy thập niên gần đây,
chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, chính truyền thông xã hội đã châm ngòi, thổi
bùng bằng kích động, tổ chức và thông tin, khiến ban đầu là các phong trào đường
phố, đi đến bạo động và hệ quả là sự suy yếu nhanh chóng của các chế độ như ở
Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Mỹ Latinh (1). Truyền thông xã hội, tin giả đã trở
thành từ khóa làm nhiều người liên tưởng tới những cuộc xuống đường bạo động
khiến cả châu Âu và thế giới đứng ngồi không yên suốt thời gian qua. Ngay tại Mỹ,
sau những cuộc biểu tình chiếm phố Wall (năm 2011), giới chính trị gia đã chỉ
trích đích danh Facebook, Twitter là “công cụ của bạo loạn”. Báo chí phương Tây
cũng đúc rút phương thức dùng truyền thông xã hội tạo nên những “đám đông” kích
động, đó là: châm ngòi xuống đường; triệt để lợi dụng các sự cố, tai nạn, những
cái chết để tạo cớ bạo loạn; sử dụng điện thoại di động, mạng xã hội để kích động
và liên kết trong, ngoài.” (…), website
[24] X. Ghi
chú 19,20 bên trên.
[25] Huấn từ của Chủ chăn giáo phận trong cuộc gặp mặt
Giới trẻ Phát Diệm lần thứ IV, 10/7/2019. Nguồn:
[26] ĐGH PHANXICÔ, Christus Vivit, sđd, 86-90, tr. 52-56.
[27] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, nxb An Tôn & Đuốc Sáng
2017, tr. 208-210.
[28] P. DOURISBOURE, nguyên tác “Les sauvages
Bahnars”, Paris 1929, Dân Làng Hồ, bản dịch Tòa Giám Mục Kontum, nxb Đà
Nẵng 2008, tr. 52-53.
[29] LM. PIO NGÔ PHÚC HÂU, Nhật ký
truyền giáo, Website https://gpcantho.com/nhat-ky-truyen-giao-lm-pio-ngo-phuc-hau/#_Toc214885920
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét