Thứ Tư, 2 tháng 4, 2025

Con Đường Đến Với Chúa Của Một Người Phật Tử

 

Tôi viết lại câu chuyện sau đây theo lời kể của chính người bạn, tôi có dịp đến thăm và ở lại với gia đình của họ trong một dịp hè ở Thành phố Ottawa - Canada 2009.



 CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CHÚA CỦA MÔT NGƯỜI PHẬT TỬ

 Lm. Giang Hạ

         

          Ngay từ nhỏ Hạnh đã thiếu tình thương của ba mẹ, vì ba mẹ ly dị và Hạnh phải sống với bà. Đến năm 12 tuổi, gia đình cho Hạnh đi vượt biên. Tàu trôi dạt và cập vào đảo Galang. Hạnh bị cuốn hút vào dòng người trên tàu, bắt đầu cuộc sống ở trại tỵ nạn. Mọi người buộc phải hoà nhập với môi trường mới.

 

1. Cô bé Phật Tử ở Trại tỵ nạn Galang

Gia đình của Hạnh có truyền thống đạo Phật, nên ở trại tỵ nạn Hạnh đi lễ chùa và sinh hoạt với nhóm Gia đình Phật tử. Hạnh kể lại, một trong những hiểu biết lúc đó là Hạnh được nghe các anh huynh trưởng trong Gia đình Phật tử nói những điều không tốt về đạo Công giáo, đặc biệt là nói xấu các ông cha. Hạnh lúc đó còn nhỏ nghe sao tin vậy nên không thích đạo và không mấy thiện cảm với đạo Công giáo. Ở trại cũng có các cha và các soeur đến giúp. Có một soeur làm việc rất nghiêm khắc, thường hay la rày các trẻ em như Hạnh. Thấy soeur này dữ quá, nên gặp soeur là Hạnh lãnh ra xa không dám đến gần, vì thế Hạnh rất sợ «ma - xơ». Ngày tháng trôi qua mau, những người tỵ nạn được Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Người Tỵ Nạn cứu giúp. Họ liên hệ với các quốc gia tự do đón nhận những người tỵ nạn này, những ai có thân nhân ở các nước đều được bảo lãnh. Riêng Hạnh vì thuộc diện «mồ côi» nên cũng được bảo lãnh vào Canada. Lúc đó Hạnh không biết người bảo lãnh mình là ai. Hạnh cũng theo mọi người lên máy bay. Chuyến bay cất cánh đưa Hạnh cùng những người tỵ nạn rời đảo Galang đến Canada.

 

2. Canada



Sau khi làm thủ tục nhập cảnh, Hạnh theo đoàn người lấy hành lý bước ra khỏi nhà ga của phi trường. Quang cảnh phi trường thật nhộn nhịp, người đưa kẻ đón, người đến kẻ đi. Những dòng nước mắt chảy dài vì vui mừng của những người thân được đoàn tụ.  Trong số những người đến đón, Hạnh thấy có một người cầm tấm bảng ghi tên của mình, đó lại là một bà soeur người Canada. Hạnh vốn đã rất sợ các bà soeur; hình ảnh của bà soeur «dữ như bà chằn» ở trại tỵ nạn vẫn ám ảnh Hạnh, nay vừa bước xuống phi trường lại gặp một bà soeur ra đón bảo lãnh cho mình, Hạnh càng sợ hơn! Hạnh nghĩ thôi rồi! cuộc đời mình từ nay lại rơi vào tay của một «bà chằn lửa khác». Nỗi sợ hãi làm Hạnh òa khóc. Bà soeur tiến lại nắm lấy tay Hạnh, Hạnh càng khóc dữ dội, khóc nức nở, khóc tức tưởi. Bà soeur cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao con bé này gặp mình nó khóc dữ vậy, chắc là nó nhớ nhà, nhớ ba mẹ, anh chị em nó. Bà soeur dỗ một hồi Hạnh cũng bớt khóc mặc dù nghe bà soeur nói tiếng Pháp Hạnh không hiểu gì cả. Bà soeur đưa Hạnh về nhà dòng của bà và cuộc đời mới của Hạnh bắt đầu từ đây.

 

3. Nhà Dòng




Những ngày đầu bước chân đến nhà dòng, với không khí an bình, tĩnh lặng không giống với cảnh ồn ào ở bên ngoài, mọi thứ được sắp xếp thứ tự sạch sẽ. Hạnh cảm thấy cái gì cũng mới nên hơi lo; tuy vậy Mẹ Bề Trên Cộng đoàn, là soeur Marie, người bảo lãnh và đón Hạnh ở phi trường, nói với Hạnh rằng: «Ở đây con không phải làm gì cả, không giặc đồ, không nấu ăn, không rửa chén. Con chỉ có việc ăn và học. Chấm hết!». H… thích nhất điểm này vì lúc còn ở Việt nam, tuy còn nhỏ nhưng Hạnh cũng phải vất vả nấu ăn giặt đồ giúp mẹ. Rồi Hạnh bắt đầu học tiếng Pháp với các soeur. Có một lần Hạnh bị các soeur la vì chia sai động từ. Tánh của Hạnh cũng khá bướng nên quyết tâm học tiếng Pháp để cải lộn với mấy bà soeur. Vì thế mà vốn liếng tiếng Pháp của Hạnh ngày càng khá hơn và cũng quen dần với nếp sống yên bình thanh thản của các nữ tu.


Sống ở nhà dòng một thời gian, điều Hạnh cảm nhận trước tiên là các soeur rất thương Hạnh, đặc biệt là mẹ Bề Trên, bà không bao giờ la mắng Hạnh, bao giờ bà cũng tôn trọng và lắng nghe Hạnh. Hạnh thường so sánh với lối giáo dục ở Việt nam, người lớn thường hay nạt nộ, gắt gỏng, bắt con trẻ phải theo người lớn chứ ít khi lắng nghe và cho trẻ được tự do, nhất là ở miền quê. Hạnh nhận thấy các sơ đối xử với Hạnh còn hơn là cha mẹ của mình nữa. Chính vì vậy mà Hạnh muốn tự mình tìm hiểu xem đời sống các «ma - xơ» ra sao! và những gì trước đây Hạnh được nghe nói về đạo công giáo, về các cha, các soeur như vậy có đúng sự thật không! Hàng ngày, Hạnh thấy các soeur đi vào nhà nguyện tham dự thánh lễ, đọc các giờ kinh phụng vụ và viếng Chúa, nhưng Hạnh không vào nhà nguyện vì Hạnh là người Phật tử.

Một điều nữa làm Hạnh rất cảm kích mẹ Bề Trên, là Hạnh tỏ ý muốn đi chùa bà chở Hạnh đi ngay. Cứ như thế chủ nhật nào bà cũng chở Hạnh đến chùa và để Hạnh sinh hoạt với nhóm các anh chị phật tử ở Canada. Bà tôn trọng niềm tin và tôn giáo của Hạnh. Bà rất nhân từ với Hạnh, bà yêu thương và chăm sóc cho Hạnh. Tuy vậy vì cái tánh bướng bỉnh nên Hạnh thường im lặng mặc dù trong lòng đầy những ưu tư, nghi ngờ, băn khoăn về đạo cũng như chôn dấu nỗi buồn nhớ nhà và hoàn cảnh gia đình của mình. Hạnh chưa bao giờ tâm sự hay kể chuyện của mình cho mẹ Bề trên biết.

Có lần được cùng các soeur xem cuốn phim về cuộc đời của Chúa Giêsu, Hạnh thấy tội nghiệp cho Ông Giêsu, ông đâu có làm gì nên tội, ông chỉ làm phép lạ và cứu người thôi mà người ta đánh đập và giết ông. Mà ông đi chết làm chi vậy! Lúc này Hạnh chưa hiểu được tình yêu lớn lao và huyền nhiệm thập giá của Chúa Giêsu nên Hạnh suy nghĩ ngô nghê theo kiểu của một đứa bé.

 

4. Ánh sáng từ Thập Giá Chúa Giêsu



Vào một đêm kia, khi các soeur đi ngủ hết, Hạnh rón rén đi vào trong nhà nguyện một mình, vì tò mò muốn biết các soeur cầu nguyện như thế nào trong nhà nguyện này. Hạnh nhìn lên tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh. Lúc ấy Hạnh vẫn chưa biết Chúa Giêsu là ai, tự nhiên Hạnh rơm rớm nước mắt. Hạnh thấy tội nghiệp cho Ông Giêsu. Hạnh tự hỏi tại sao ông phải khổ như thế! Rồi Hạnh nghĩ đến thân phận của mình. Ở Việt nam, Hạnh có cha có mẹ nhưng lại như một đứa trẻ mồ côi. Hạnh một thân một mình đến Galang và cũng một thân một mình đến Canada. Càng nghĩ Hạnh càng khóc nhiều hơn và Hạnh bắt đầu nói với Chúa Giêsu: «Ông Giêsu ơi! Con không biết ông là ai, con cũng không biết gọi ông bằng gì nữa! Nhưng con muốn nói hết những uất ức trong lòng của con cho ông nghe». Vừa khóc Hạnh vừa nói những ưu tư trong lòng, những chuyện buồn, những hiểu lầm về đạo công giáo, nỗi nhớ nhà và những khó khăn Hạnh gặp phải…Có lẽ duy nhất Chúa Giêsu là người đầu tiên mà Hạnh đã tâm sự hết những ưu tư sâu kín trong lòng.

Thế rồi những đêm kế tiếp, khi các soeur đi ngủ hết, Hạnh lại một mình vào nhà nguyện, đôi mắt ngấn lệ nói chuyện mình với ông Giêsu: «Ông Giêsu ơi! Con thấy ông im lặng con không biết ông có nghe con không, nhưng con cũng cứ nói với ông…». Sau khi nói chuyện với ông Giêsu, Hạnh cảm thấy trong lòng nhẹ hẵn. Những u uất từ bao lâu nay như vơi bớt.

Một lần kia có một soeur thấy Hạnh trong nhà nguyện và thấy Hạnh khóc, bà để ý theo dõi Hạnh và nói với mẹ Bề Trên «sao em thấy con Hạnh nó vào nhà nguyện và nó khóc». Tuy vậy các soeur thường tôn trọng chuyện riêng tư của Hạnh nên không gạn hỏi nhiều. Chỉ có mẹ Bề Trên hỏi Hạnh có chuyện gì không, Hạnh nói với bà không có gì, và bà cũng không hỏi Hạnh nữa. Nhưng vào một buổi chiều, tự nhiên Hạnh thấy muốn nói với bà tất cả những nỗi niềm u uất trong lòng của mình. Hạnh đến bên mẹ Bề Trên và kể cho mẹ nghe tất cả tâm sự của mình, từ chuyện ba má Hạnh ly dị, Hạnh phải sống với bà, chuyện Hạnh đi vượt biên rồi sinh hoạt Gia đình Phật tử…về cái nhìn không mấy thiện cảm về đạo công giáo về các cha, các soeur…đến cả chuyện Hạnh sợ các bà soeur như thế nào. Tuy nhiên, bây giờ Hạnh mới tự tìm hiểu và khám phá ra sự thật không phải như vậy. Hạnh cảm thấy hối tiếc vì đã hiểu sai về đạo và quả thật là đã từng ghét các bà soeur. Sau giây phút tâm sự với mẹ Bề Trên, Hạnh cảm thấy lòng nhẹ tênh như trút được gánh nặng những ưu tư chồng chất bấy lâu nay.

Từ lúc đó, Hạnh càng thương mẹ Bề Trên hơn và tin tưởng bà, coi bà như một người mẹ thật sự của Hạnh . Cái nhìn ác cảm ngày xưa được thay bằng lòng kính trọng và tình thương mến. Hạnh nhận ra một điều chính mẹ Bề Trên đã chinh phục Hạnh, chính đời sống và cung cách đối xử nhân hậu của bà đã thay đổi não trạng của Hạnh.

 

 

5. Linh thao và Gặp Chúa

Một hôm, sau khi tan học ở trường về, các bạn Công giáo rủ Hạnh tham dự khoá linh thao. Hạnh chưa từng biết linh thao là gì nhưng cũng về xin Soeur Bề Trên cho Hạnh đi tham dự khoá linh thao. Bà Bề Trên này lạ thật, xin cái là bà cho liền; bà không hề hỏi lý do hay nói rằng đi làm gì vì con là phật tử chính hiệu con nai vàng ngơ ngác. Thế là lần đầu tiên Hạnh được tham dự khoá linh thao với cảm giác thật ngỡ ngàng. Trong những ngày linh thao Hạnh xúc động thật sự. Lời Chúa qua vị linh mục hướng dẫn giúp cho Hạnh hiểu rõ hơn ý nghĩa cuộc sống. Chúa Giêsu chính là sự sống và tình yêu,  hiểu được những gì phải làm, những gì nên tránh.  Thật sự là trước đây khi ở trong Gia đình Phật tử, Hạnh thấy giáo lý nhà Phật lơ mơ không rõ ràng.

Sau khi tham dự khoá linh thao trở về, dường như trong tâm hồn Hạnh có một sự biến đổi. Hạnh bắt đầu thích đi nhà thờ. Hạnh xin bà Bề Trên cho Hạnh đi nhà thờ, bà cũng đồng ý cho đi. Hạnh nghe cha xứ ở đó giảng thật hay và đánh động. Cứ thế chủ nhật nào Hạnh cũng thích đi nhà thờ để nghe cha giảng. Những nghi ngờ trước đây không còn nữa mà được thay thế bằng một niềm tin đơn sơ chân thành.

 

Hạnh bắt đầu xin học giáo lý công giáo và sau một thời gian học đạo, được lãnh nhận bí tích Rửa tội. H. nói ngày được Rửa tội cha xứ còn cười nói với Hạnh không được trở lại Phật tử nữa đó nghe! Hạnh nghĩ có Chúa thật sự trong cuộc đời này. Điều mà từ bao lâu nay H. chưa bao giờ biết và nghĩ tới. Từ nay H. tin rằng cuộc đời của H. có Chúa dẫn dắt. Tuy nhiên, một biến cố đau buồn đến với H. là sau ngày Hạnh được rửa tội thì mẹ Bề Trên được Chúa gọi về. Hạnh đau đớn như mất một người mẹ. Bởi vì chính bà như là người mẹ thứ hai đã mang đến cho H. cuộc sống mới và làm thay đổi cuộc đời của H. .

Rồi Hạnh lập gia đình với một người công giáo, nghe nói anh ấy là dân «ta ru»[1] và cả hai cùng sinh hoạt  trong ca đoàn nhà thờ.

Hiện tại, gia đình sống rất Hạnh phúc và có 3 đứa con: hai trai, một gái và sắp có thêm một đứa nữa. Hạnh kể: «Năm ngoái con bị bệnh nặng vì quá lo lắng cho chồng đang bị thất nghiệp; nên con mất ngủ, tinh thần sa sút trầm trọng, người con ốm tong ốm teo. Một buổi sáng con thức dậy, người choáng váng, không đi nỗi, phải gọi xe cấp cứu đưa vào bệnh viện gấp. Khi nằm ở bệnh viện con có cảm giác mình sắp chết. Tự nhiên trước cái chết con sợ quá chừng, con nói với Chúa «Chúa ơi! Con chưa muốn chết, con chưa muốn chết. Chúa đừng cho con chết lúc này nghe Chúa! và Chúa cho con sống đến hôm nay».

 

6. Gia đình Công giáo



Hôm đầu tiên tôi đến nhà anh chị Kh. H, sau khi ăn tối, anh chị và mấy đứa nhỏ ngồi chung quanh  trong phòng khách. Anh chị đốt một cây nến để ở giữa và bắt đầu buổi cầu nguyện. Chị làm dấu và nói với đứa lớn nhất cầu nguyện trước, rồi lần lượt đến hai đứa nhỏ cầu nguyện sau. Nó cầu nguyện như thế này: «Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đã cho con có ba, có mẹ. Chúa cho con có nhà để ở, có xe để đi, có thức ăn, có áo quần để mặc, có trường để học, có các Cha đến thăm…». Sau đó anh chị cầu nguyện và sau cùng tôi cũng cầu nguyện và chúc lành cho gia đình. Tôi nói với anh chị buổi đọc kinh tối gia đình rất dễ thương, cố gắng giữ để tập cho các con có lòng tin và yêu mến Chúa. Giờ kinh tối cũng là bài học giáo lý căn bản đơn sơ bắt đầu từ trường “giáo lý gia đình”. Lời Chúa và những mầu nhiệm trong đạo sẽ thấm vào lòng trẻ thơ qua những lời kinh đơn sơ. Đó chính là kinh nghiệm của tôi khi còn nhỏ. Tối nào ba mẹ cũng đọc kinh và bắt tôi đọc kinh. Những lời kinh đó đã thấm vào trong ký ức của tôi, mà cho đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc. Một trong những kinh đó là kinh «Kính nguyện Chúa Thánh Thần» ba tôi rất thích đọc vào mỗi thứ hai đầu tuần, đọc theo giọng miền Trung, «Kính (a) nguyện (a) Chúa (a) Thánh (a) Thần, Cực thánh Ngôi Ba Thiên Chúa. Ơn thiêng liêng cứu đời, nguyện trông hiện xuống phàm gian, sáng nhiệm bởi trời, xin thấu thửa lòng chúng tử yến thiêng…». Ngày đó tôi vẫn đọc thuộc lòng mà không hiểu gì cho đến khi tôi vào học ở Đại Chủng viện Sài gòn tôi mới biết đó là kinh «Veni Sancte Spiritus» mà phụng vụ Giáo Hội vẫn đọc trong ca tiếp liên ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. "Lạy Chúa Thánh Thần Xin Ngài ngự đến, và từ trời cao xin tỏa ánh quang minh của Ngài ra. Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến, Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến! Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng ủy lạo dịu dàng. Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi lúc lệ rơi..."

 

***

 

 

 

Kết

Qua câu chuyện của chị Hạnh tôi nhận ra tình yêu vô bờ của Chúa trong hành trình đức tin của chị. Tình yêu cứu độ phổ quát của Chúa dành cho hết mọi người không loại trừ một ai và Chúa luôn đi bước trước, luôn có sáng kiến. Khi yêu ai mình cũng có sáng kiến tìm cách đến với người đó. Chúa cũng vậy, Chúa yêu con người Chúa cũng tìm cách đến với con người. Chúa đã dùng những cách thế và những hoàn cảnh đặc biệt trong cuộc sống của từng người; những cách thế đôi khi con người không thể hiểu được để cuối cùng hướng họ đến ơn cứu độ. Tôi cũng thấy trong hành trình đức tin của anh chị em, có sự đồng hành của nhiều người, đó là mối dây hiệp thông trong lòng Giáo Hội, mối dây hiệp thông sâu xa bắt nguồn từ chính Chúa Ba Ngôi. Những người bạn trẻ đã mời người bạn của mình đi tham dự khoá linh thao một cách hồn nhiên đơn sơ trong tình bạn chân thành. Tuy nhiên, với cái nhìn đức tin, có thể nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần qua các bạn trẻ và lời mời gọi của họ. Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong lòng Giáo Hội. Suốt cuộc đời, bà mẹ Bề Trên chắc đã hoàn thành được nhiều sứ mệnh, trong đó việc giúp tái sinh bé Hạnh là một điểm son. Hình ảnh và cách sống, cách đối xử của Mẹ Bề Trên đối với Hạnh như là cách thể hiện của phương pháp sư phạm mới mẻ cho việc truyền giáo ngày hôm nay: Đón nhận, lắng nghe, cảm thông, tôn trọng, yêu thương. Cuộc hành trình đức tin của chị Hạnh là một chứng từ sống động, qua đó ta thấy rõ bàn tay Chúa quan phòng dẫn đưa, mỗi người một cách. Đồng thời, để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài; Chúa cũng cần sự cộng tác của mỗi người chúng ta.  

 

Chúa gọi tên con

Từ câu chuyện của người bạn trên đây, tôi suy tư về ơn gọi được làm người và làm con Chúa của mỗi người Kitô hữu và cám ơn Chúa về ơn gọi linh mục của mình. Tất cả đều xuất phát từ tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Dòng suy tư đã cho tôi cảm hứng dệt thành  nhạc khúc: Chúa gọi tên con, như là lời nguyện cầu khép lại câu chuyện chia sẻ này.

 

 

 

Lạy Chúa!

Chúa tìm con khi con không tìm Chúa.

Chúa biết con khi con chưa biết Chúa.

Chúa gọi con khi con đang hờ hững.

Chúa ơi! Nay con biết rằng

Chúa rất nhân từ, Chúa quá yêu con.

Lạy Chúa!

Chúa chờ con khi con không đợi Chúa.

Chúa thấy con khi con không thấy Chúa.

Chúa gặp con khi con đang lẫn trốn.

Chúa ơi! Con như chiên lạc

Chúa đưa con về, Chúa vác trên vai.

Lạy Chúa!

Chúa chọn con khi con không chọn Chúa.

Chúa yêu con khi con chưa yêu Chúa.

Chúa ở bên con khi con xa lìa Chúa.

Chúa ơi! Nay con hiểu rồi,

trong trái tim Người, Chúa đã khắc tên con.

 

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong tiếng gió chiều thì thào.

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong nắng ấm ban mai.

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong tấm lòng người mẹ.

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong trái tim yêu thương.

 

Lm. Giang Hạ

(mùa hè tại Ottawa - Canada

tháng 09/2009)

 

 


 



 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] "ta ru" nói lái thành "tu ra", ý nói người tu xuất.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét