Thứ Năm, 3 tháng 4, 2025

Chúa Giêsu Linh Mục - Linh mục của Chúa Giêsu

 


Chúa Giêsu Linh mục - Linh mục của Chúa Giêsu

(Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngày xin ơn thánh hóa các linh mục)

 

L.m. G.B. Trương Đình Hà

 

Tháng sáu, theo lịch phụng vụ của Giáo Hội, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, đặc biệt trong tháng sáu có lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu và trong ngày này toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho các linh mục, xin ơn thánh hóa các linh mục. Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm nay lại trùng với ngày mừng kính thánh Gioan Tẩy Giả, cho tôi có thêm chút suy tư vì quả thực cuộc đời của Thánh Gioan Tẩy giả gắn liền với cuộc đời của Chúa Giêsu. Vì từ lúc thụ thai Gioan đã nhảy mừng rồi, Gioan đã gặp Chúa ngay trong lòng mẹ, khi Đức Mẹ đến viếng thăm. Rồi Gioan ra đời lớn lên sống trong hoang địa, Chúa Giêsu thì sống tại làng Nazareth, nhưng Gioan không ngừng hướng về Chúa Giêsu, vì cuộc đời của Gioan được báo trước là kẻ dọn đường cho Chúa, và chính khi Gioan xuất hiện làm phép rửa ở sông Giordan thì cũng đúng lúc Chúa Giêsu xuất hiện công khai. Vì thế tôi nghĩ đến sứ vụ Chúa Giêsu Linh mục, từ lúc Chúa xuất hiện tại sông Giordan như một  “lễ đăng quan” khởi đầu cho sứ vụ. Từ đó nhìn về cuộc đời các linh mục gắn liền với Chúa Giêsu Linh mục, từ lúc được Chúa chọn gọi và được Đức Giám Mục đặt tay, xức Dầu Thánh truyền chức. Xin được chia sẻ với chủ đề “Chúa Giêsu Linh mục và Linh mục của Chúa Giêsu”.

 

1. Chúa Giêsu Linh mục

Sứ vụ của Chúa Giêsu Linh mục khởi đầu công khai tại Sông Giordan, xin được trích đoạn Tin mừng thánh Maccô, vì thánh Maccô ghi khởi đầu Tin Mừng của Ngài cũng là khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu với biến cố Chúa chịu phép rửa ở sông Giordan (Mc 1, 1-11); (Mt 3, 13-17) ( Lc 3,21-22)

Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa:

Trong sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

 Đúng theo lời đó, ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.

Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.

 Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.

Nếu như được hư cấu một chút về lễ đăng quan của Chúa Giêsu Linh mục, tôi xin phép được hư cấu câu chuyện như sau:

Nhiều người Do Thái đọc thấy tờ bướm in trắng đen, mà chắc không phải in đâu, vì thời đó làm gì có máy in, chỉ viết tay thôi viết trên giấy vỏ cây mà chữ viết thật đẹp giống như in vậy. Họ chỉ thấy vỏn vẹn có mấy câu trên tờ bướm sau đây:

Lễ đăng quan của Linh mục Giêsu được tổ chức tại sông Giordan, xin mời mọi người đến tham dự.

Nhiều người cũng lấy làm lạ, lễ đăng quan gì lạ đời chẳng giống ai mà cũng chưa thấy ai. Phải tổ chức ở Đền Thờ Giêrusalem chứ, hay nghèo lắm thì cũng mượn một Hội đường của người Do Thái, đàng này đem ra sông Giordan tổ chức.

Rồi cũng không cho biết vị tiên tri nào đặt tay xức dầu. Sau lễ có tiệc mừng hay không cũng không thấy nói.

Mọi người đến đầy đủ tại bờ sông, chỉ có ông ngôn sứ “ăn châu chấu và uống mật ong rừng” đang làm công tác chuẩn bị cho mọi người.

Để chuẩn bị cho lễ đăng quang của Linh mục Giêsu, tất cả mọi người đều được mời gọi xuống dòng sông để Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho. Và từng người đến trước Gioan để chịu phép rửa sám hối. Có nhiều hạng người đến xin chịu phép rửa: những người Biệt phái, các luật sĩ, các vị kỳ lão trong dân, những người lính cũng đến xin Gioan làm phép rửa thống hối; nói chung là tất cả mọi người, đông lắm luôn! Và người ta trông đợi để thấy vị Giêsu đến để làm lễ đăng quan, nhưng mãi vẫn không thấy đâu.

Bỗng trong dòng người sắp hàng đến với Gioan để xin chịu phép rửa, Gioan phát hiện ra một người đến lượt ông, có lẽ ông đã sắp hàng từ sáng sớm giờ mới đến phiên ông. Gioan thấy Người liền nói:

- “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !”.

Nhưng người đó trả lời:

- “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”

Ông Gioan chiều theo mà làm phép rửa cho Người.

Rồi Gioan nói tiếp: “Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng đến sau tôi nhưng có trước tôi, tôi không xứng đáng cuối xuống cởi dây dép cho Người, chính Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa”.

Gioan cũng là người giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Lúc ấy, nhiều người ngạc nhiên la lên: Chết thật! Hóa ra ông ấy chính là Linh mục Giêsu.

Rõ ràng qua lời giới thiệu của Gioan, mọi người đã nhận ra Chúa Giêsu linh mục. Phần đầu lễ đăng quan này cũng lạ: có đoàn rước lúc đầu nhưng mọi người đều sắp hàng thinh lặng hồi tâm sám hối, không ai biết vị tân linh mục ở đâu hết, Vị này cũng sắp hàng đứng ngay trong hàng ngũ của họ với thái độ khiêm nhường thinh lặng.

Ai đã xức dầu tấn phong cho Chúa Giêsu:

Thánh Maccô ghi lại:

Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." (Mc 1,10 - 11)

Như vậy, Chính Chúa Cha là Đấng xức Dầu Thánh Thần cho Chúa Giêsu và Chúa Cha cũng xác nhận rằng: Chúa Giêsu là con chí ái của Chúa Cha. Người đẹp lòng Cha và Chúa Cha hài lòng về Người.

Sau đó Người bắt đầu hành trình sứ vụ của Người bằng việc vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày.

 

2. Linh mục của Chúa Giêsu

Nhìn ngắm Chúa Giêsu Linh mục tối cao, linh mục hoàn hảo đẹp lòng Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu lại ban thánh chức linh mục cho loài người, nên mới có các Linh mục của Chúa Giêsu.

- Chúa Giêsu ngay từ lúc xuất hiện công khai đón nhận sứ vụ Chúa Cha trao, bằng việc lội xuống dòng nước đồng hóa với anh chị em mình, hòa mình vào dòng người cùng đến xin Gioan làm phép rửa. Nói theo ngôn ngữ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới lần thứ XVI thì Chúa Giêsu Hiệp Hành với dân Chúa. Chúa bước xuống dòng nước để thanh tẩy dòng nước, Chúa hòa mình với dòng người tội lỗi, đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, mọi hạng người, mọi ngành nghề để vực họ dậy, nâng họ lên, xóa tội cho họ, cứu độ họ.

Linh mục của Chúa Giêsu được Chúa mời gọi “Hãy theo Ta” và họ quyết định bước theo Chúa. “Hãy theo Ta” là lời mời gọi người môn đệ không những bước theo Chúa Giêsu, làm môn đệ của Chúa, dâng hiến cuộc đời của mình cho Ngài; mà còn là chấp nhận sống như Chúa Giêsu đã sống, hành động như Chúa Giêsu đã hành động, chịu đau khổ như Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, chịu hiểu lầm, chống đối và cuối cùng chịu chết trên thập giá trần truồng, tan nát. Để rồi cùng được đi vào vinh quang phục sinh với Chúa Kitô. Vì thế, khởi đầu của sứ vụ linh mục cũng phải là khởi đầu của một cuộc đời giống Chúa Giêsu, xóa mình đi, cùng hòa vào trong dòng chảy của nhân loại, của mọi hạng người; cùng hiệp hành với anh chị em mình trên mọi nẻo đường: tội lỗi, đói nghèo, bệnh tật, lam lũ, đau thương. Tuy nhiên, trong thực tế, có khi chúng ta lại phân biệt chọn người để đến, để giao lưu, tiếp người đáng tiếp, lưu tâm đến một số người...còn lại số đông là đoàn chiên của linh mục nhưng có khi dường như bị bỏ rơi lại đàng sau, bị lãng quên.

Con xin chia sẻ một vài trường hợp, vừa rồi con có nghe một cuộc điện thoại của một bà cụ có lẽ cũng 80 rồi, cũng không ở trong xứ mình, bà gọi mừng bổn mạng. Bà nói vui vẻ con giờ già rồi chân bị đau đi không được nên không đến thăm mừng bổn mạng cha được nên gọi điện thoại, rồi bà cũng kể chuyện vừa rồi cha phó của con chuyển xứ khác con cũng gọi điện thoại hỏi thăm ngài và muốn đến thăm cha, dầu gì Ngài cũng ở với chúng con hai năm, giờ Ngài đi con muốn đến thăm chào cha. Thế rồi bà, dù đau chân cũng cố gắng đến để gặp cha phó, bà thấy cha đi trên hành lang bà gọi cha nhưng cha nói “tôi bận không có gặp bà”. Rồi cha bỏ đi, bà nói con quê quá cha, con đến chào cha mà cha hổng tiếp mình, con nghĩ chắc cha cũng bận, thôi con đi về không biêt cha phó con làm sao. Bà vừa nói vừa cười.

Một trường hợp khác, một người nói về việc xưng tội, có lẽ cũng xưng tội với một cha trẻ, cha phó rồi bị cha hạch hỏi và la trong tòa giải tội, bà nói con xưng tội mấy chục năm nay với các cha lớn tuổi ở đây, chưa bao giờ bị các cha hạch hỏi và la như vậy, bà vừa nói vừa khóc...

- “Đây Chiên Thiên Chúa”, Chúa Giêsu Linh mục là con chiên bị sát tế hiến dâng cho Thiên Chúa. Linh mục hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa, là đồng số phận với con chiên bị sát tế, hiến dâng cho Thiên Chúa. Bước vào đời linh mục cũng là bước vào đời hiến tế, mọi ngày trong đời linh mục đều phải hiến tế trên bàn thờ. Như ngọn nến tan chảy, linh mục cũng phải tiêu hao cho đoàn chiên của mình, chết cho đoàn chiên của mình.

- “Đây Đấng xóa tội trần gian”. Chúa Giêsu chết để xóa tội cho trần gian, Người cũng ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ để tiếp nối sứ vụ của Ngài, và tiếp tục ban Chúa Thánh Thần trong chức Thánh Linh mục để các Ngài thay mặt Chúa ban ơn tha tội cho các tội nhân, để giao hòa thế gian với Thiên Chúa. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. (Ga 20, 23)

Tin mừng Thánh Gioan 8, 1-11 nói về người phụ nữ ngoại tình, kể lại có một lần những người Kinh sư và Biệt phái đưa đến trước Chúa Giêsu một người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang, mà theo luật Môsê thì người phụ nữ này phải bị ném đá chết. Những người Biệt phái muốn thăm dò thái độ của Chúa Giêsu trước việc giữ luật và trước một tội nhân vi phạm luật. Chúa Giêsu không nói gì hết, Ngài thinh lặng, nhưng vì họ cứ hỏi mãi nên Ngài nói: ai trong các ông sạch tội thì cứ việc ném đá người phụ nữ này trước đi, và họ bỏ đi hết kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, chỉ còn mình Chúa Giêsu với người phụ nữ, ngài hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.

Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng ngày 27/02/2018 tại nhà nguyện thánh Matta, ngài kể có một vị Hồng y trong một lần giải tội, ngài nghe tội nhân xưng một tội rất nặng, ngài không nhấn mạnh đến tội đó nhưng tiếp tục cuộc đối thoại nói đến tình yêu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Điều này mở lối vào trái tim của hối nhân và họ cảm thấy sự bình an. Thiên Chúa cũng làm như thế với chúng ta, Người nói: “Đến đây, chúng ta thảo luận, nói chuyện. Hãy cầm lấy giấy chứng nhận tha thứ. Có ơn tha thứ.” Đức Thánh Cha Phanxico nói: “Thiên Chúa không mệt mỏi mời gọi mỗi người chúng ta thay đổi cuộc sống, đến với Người để hoán cải và Người mời gọi chúng ta với sự dịu dàng và tin tưởng của một ngừời cha. Các linh mục giải tội hãy làm như thế: không đe dọa, nhưng với sự dịu dàng và tạo nên lòng tin tưởng”[1]. Ngài nhắc nhở các cha giải tội trong tông huấn Evangelii Gaudium: “Tòa giải tội không phải là một phòng tra tấn nhưng là nơi của lòng Chúa thương xót…”[2] Các cha xứ không phải là một công chức, cũng không phải là người sở hữu những gì của Thiên Chúa, họ chỉ là những máng chuyển mà thôi.

 

Lời kết

Trong ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay, xin Chúa Giêsu thánh hóa các mục tử của Chúa. Xin Chúa giúp các Linh mục của Chúa Giêsu biết nổ lực hoán cải theo gương Chúa Giêsu linh mục, Đấng đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào. Xin kết thúc phần chia sẻ với lời cầu nguyện cho các linh mục sau đây.

Lời nguyện cho các Linh Mục

 Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các Linh mục,
vì các ngài là của riêng Chúa,
đã tận hiến cả cuộc đời
để lo việc mở mang nước Chúa.

 Xin Chúa gìn giữ các Linh mục vì các ngài sống giữa đời
nhưng không thuộc về thế gian;
những lúc bị lạc thú trần gian cám dỗ
xin Chúa ấp ủ các Linh mục trong Trái Tim Ngài.

 Xin Chúa hãy gìn giữ và an ủi các Linh mục,
trong những lúc các ngài cô đơn sầu khổ;
khi suốt cả cuộc đời hy sinh cho các linh hồn
bị xem ra vô ích.

 Xin Chúa gìn giữ các Linh mục,
và xin Chúa thương nhớ, lạy Chúa,
các ngài không có ai chỉ trừ một mình Chúa thôi!
Các ngài chỉ có con tim của con người
với những mỏng dòn yếu đuối của nó.

 Xin Chúa giữ gìn các Linh mục trong trắng
như Mình Thánh Chúa mà hằng ngày các ngài nâng niu.

Xin Chúa thương chúc lành cho các Linh mục,
xin thánh hóa mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của các ngài. Amen!

 

24/06/2022

(Chia sẻ với các Linh mục giáo phận Bà rịa - Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu)



[1]. ĐTC Phanxico, Tòa giải tội là nơi tha thứ chứ không đe dọa, X. archivioradiovaticana.va 2018/2/27.

[2]. Tông Huấn Niềm vui của Tin mừng, 47.

Đọc tiếp »

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2025

Khi những chiếc quan tài đến nhà thờ

 

Khi những chiếc quan tài đến nhà thờ

Lm. Giang Hạ

 



 

Trong cuộc sống có những điều rất lạ

Tưởng chừng như không xảy ra bao giờ

Giáo Đường nhỏ tiếng chuông chiều ngừng thở

 

Cửa nhà thờ rộng mở khi chẳng có người đi

Ngôi nhà thờ  thường dành cho những người sống

Đến nguyện kinh dâng Thánh Lễ  mỗi ngày

Có một điều rất lạ đang xảy ra,

cho con người khắp nơi trên thế giới!

Vì dịch cúm Corona bùng khởi

khắp mọi nơi trên trái đất rã rời

Cửa Giáo Đường một lần nữa đóng lại thôi

những ai đang sống không được vào dự lễ

chỉ những chiếc quan tài không bao giờ đi lễ

lại đến nhà thờ ngập tràn không có lối ra

Lần đầu tiên trong đời người linh mục già[1]

Dâng thánh lễ chỉ toàn là người chết!

Mùa dịch covid-19

Giang Hạ



[1] Linh mục Mario Carminati 64 tuổi, cha sở nhà thờ thánh Giuse ở Seriate, tỉnh Bergamo nước Ý, dâng thánh lễ cho giáo dân của ngài chết vì dịch covid-19, ngày 28/03/2020.

Đọc tiếp »

Con Đường Đến Với Chúa Của Một Người Phật Tử

 

Tôi viết lại câu chuyện sau đây theo lời kể của chính người bạn, tôi có dịp đến thăm và ở lại với gia đình của họ trong một dịp hè ở Thành phố Ottawa - Canada 2009.



 CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CHÚA CỦA MÔT NGƯỜI PHẬT TỬ

 Lm. Giang Hạ

         

          Ngay từ nhỏ Hạnh đã thiếu tình thương của ba mẹ, vì ba mẹ ly dị và Hạnh phải sống với bà. Đến năm 12 tuổi, gia đình cho Hạnh đi vượt biên. Tàu trôi dạt và cập vào đảo Galang. Hạnh bị cuốn hút vào dòng người trên tàu, bắt đầu cuộc sống ở trại tỵ nạn. Mọi người buộc phải hoà nhập với môi trường mới.

 

1. Cô bé Phật Tử ở Trại tỵ nạn Galang

Gia đình của Hạnh có truyền thống đạo Phật, nên ở trại tỵ nạn Hạnh đi lễ chùa và sinh hoạt với nhóm Gia đình Phật tử. Hạnh kể lại, một trong những hiểu biết lúc đó là Hạnh được nghe các anh huynh trưởng trong Gia đình Phật tử nói những điều không tốt về đạo Công giáo, đặc biệt là nói xấu các ông cha. Hạnh lúc đó còn nhỏ nghe sao tin vậy nên không thích đạo và không mấy thiện cảm với đạo Công giáo. Ở trại cũng có các cha và các soeur đến giúp. Có một soeur làm việc rất nghiêm khắc, thường hay la rày các trẻ em như Hạnh. Thấy soeur này dữ quá, nên gặp soeur là Hạnh lãnh ra xa không dám đến gần, vì thế Hạnh rất sợ «ma - xơ». Ngày tháng trôi qua mau, những người tỵ nạn được Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Người Tỵ Nạn cứu giúp. Họ liên hệ với các quốc gia tự do đón nhận những người tỵ nạn này, những ai có thân nhân ở các nước đều được bảo lãnh. Riêng Hạnh vì thuộc diện «mồ côi» nên cũng được bảo lãnh vào Canada. Lúc đó Hạnh không biết người bảo lãnh mình là ai. Hạnh cũng theo mọi người lên máy bay. Chuyến bay cất cánh đưa Hạnh cùng những người tỵ nạn rời đảo Galang đến Canada.

 

2. Canada



Sau khi làm thủ tục nhập cảnh, Hạnh theo đoàn người lấy hành lý bước ra khỏi nhà ga của phi trường. Quang cảnh phi trường thật nhộn nhịp, người đưa kẻ đón, người đến kẻ đi. Những dòng nước mắt chảy dài vì vui mừng của những người thân được đoàn tụ.  Trong số những người đến đón, Hạnh thấy có một người cầm tấm bảng ghi tên của mình, đó lại là một bà soeur người Canada. Hạnh vốn đã rất sợ các bà soeur; hình ảnh của bà soeur «dữ như bà chằn» ở trại tỵ nạn vẫn ám ảnh Hạnh, nay vừa bước xuống phi trường lại gặp một bà soeur ra đón bảo lãnh cho mình, Hạnh càng sợ hơn! Hạnh nghĩ thôi rồi! cuộc đời mình từ nay lại rơi vào tay của một «bà chằn lửa khác». Nỗi sợ hãi làm Hạnh òa khóc. Bà soeur tiến lại nắm lấy tay Hạnh, Hạnh càng khóc dữ dội, khóc nức nở, khóc tức tưởi. Bà soeur cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao con bé này gặp mình nó khóc dữ vậy, chắc là nó nhớ nhà, nhớ ba mẹ, anh chị em nó. Bà soeur dỗ một hồi Hạnh cũng bớt khóc mặc dù nghe bà soeur nói tiếng Pháp Hạnh không hiểu gì cả. Bà soeur đưa Hạnh về nhà dòng của bà và cuộc đời mới của Hạnh bắt đầu từ đây.

 

3. Nhà Dòng




Những ngày đầu bước chân đến nhà dòng, với không khí an bình, tĩnh lặng không giống với cảnh ồn ào ở bên ngoài, mọi thứ được sắp xếp thứ tự sạch sẽ. Hạnh cảm thấy cái gì cũng mới nên hơi lo; tuy vậy Mẹ Bề Trên Cộng đoàn, là soeur Marie, người bảo lãnh và đón Hạnh ở phi trường, nói với Hạnh rằng: «Ở đây con không phải làm gì cả, không giặc đồ, không nấu ăn, không rửa chén. Con chỉ có việc ăn và học. Chấm hết!». H… thích nhất điểm này vì lúc còn ở Việt nam, tuy còn nhỏ nhưng Hạnh cũng phải vất vả nấu ăn giặt đồ giúp mẹ. Rồi Hạnh bắt đầu học tiếng Pháp với các soeur. Có một lần Hạnh bị các soeur la vì chia sai động từ. Tánh của Hạnh cũng khá bướng nên quyết tâm học tiếng Pháp để cải lộn với mấy bà soeur. Vì thế mà vốn liếng tiếng Pháp của Hạnh ngày càng khá hơn và cũng quen dần với nếp sống yên bình thanh thản của các nữ tu.


Sống ở nhà dòng một thời gian, điều Hạnh cảm nhận trước tiên là các soeur rất thương Hạnh, đặc biệt là mẹ Bề Trên, bà không bao giờ la mắng Hạnh, bao giờ bà cũng tôn trọng và lắng nghe Hạnh. Hạnh thường so sánh với lối giáo dục ở Việt nam, người lớn thường hay nạt nộ, gắt gỏng, bắt con trẻ phải theo người lớn chứ ít khi lắng nghe và cho trẻ được tự do, nhất là ở miền quê. Hạnh nhận thấy các sơ đối xử với Hạnh còn hơn là cha mẹ của mình nữa. Chính vì vậy mà Hạnh muốn tự mình tìm hiểu xem đời sống các «ma - xơ» ra sao! và những gì trước đây Hạnh được nghe nói về đạo công giáo, về các cha, các soeur như vậy có đúng sự thật không! Hàng ngày, Hạnh thấy các soeur đi vào nhà nguyện tham dự thánh lễ, đọc các giờ kinh phụng vụ và viếng Chúa, nhưng Hạnh không vào nhà nguyện vì Hạnh là người Phật tử.

Một điều nữa làm Hạnh rất cảm kích mẹ Bề Trên, là Hạnh tỏ ý muốn đi chùa bà chở Hạnh đi ngay. Cứ như thế chủ nhật nào bà cũng chở Hạnh đến chùa và để Hạnh sinh hoạt với nhóm các anh chị phật tử ở Canada. Bà tôn trọng niềm tin và tôn giáo của Hạnh. Bà rất nhân từ với Hạnh, bà yêu thương và chăm sóc cho Hạnh. Tuy vậy vì cái tánh bướng bỉnh nên Hạnh thường im lặng mặc dù trong lòng đầy những ưu tư, nghi ngờ, băn khoăn về đạo cũng như chôn dấu nỗi buồn nhớ nhà và hoàn cảnh gia đình của mình. Hạnh chưa bao giờ tâm sự hay kể chuyện của mình cho mẹ Bề trên biết.

Có lần được cùng các soeur xem cuốn phim về cuộc đời của Chúa Giêsu, Hạnh thấy tội nghiệp cho Ông Giêsu, ông đâu có làm gì nên tội, ông chỉ làm phép lạ và cứu người thôi mà người ta đánh đập và giết ông. Mà ông đi chết làm chi vậy! Lúc này Hạnh chưa hiểu được tình yêu lớn lao và huyền nhiệm thập giá của Chúa Giêsu nên Hạnh suy nghĩ ngô nghê theo kiểu của một đứa bé.

 

4. Ánh sáng từ Thập Giá Chúa Giêsu



Vào một đêm kia, khi các soeur đi ngủ hết, Hạnh rón rén đi vào trong nhà nguyện một mình, vì tò mò muốn biết các soeur cầu nguyện như thế nào trong nhà nguyện này. Hạnh nhìn lên tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh. Lúc ấy Hạnh vẫn chưa biết Chúa Giêsu là ai, tự nhiên Hạnh rơm rớm nước mắt. Hạnh thấy tội nghiệp cho Ông Giêsu. Hạnh tự hỏi tại sao ông phải khổ như thế! Rồi Hạnh nghĩ đến thân phận của mình. Ở Việt nam, Hạnh có cha có mẹ nhưng lại như một đứa trẻ mồ côi. Hạnh một thân một mình đến Galang và cũng một thân một mình đến Canada. Càng nghĩ Hạnh càng khóc nhiều hơn và Hạnh bắt đầu nói với Chúa Giêsu: «Ông Giêsu ơi! Con không biết ông là ai, con cũng không biết gọi ông bằng gì nữa! Nhưng con muốn nói hết những uất ức trong lòng của con cho ông nghe». Vừa khóc Hạnh vừa nói những ưu tư trong lòng, những chuyện buồn, những hiểu lầm về đạo công giáo, nỗi nhớ nhà và những khó khăn Hạnh gặp phải…Có lẽ duy nhất Chúa Giêsu là người đầu tiên mà Hạnh đã tâm sự hết những ưu tư sâu kín trong lòng.

Thế rồi những đêm kế tiếp, khi các soeur đi ngủ hết, Hạnh lại một mình vào nhà nguyện, đôi mắt ngấn lệ nói chuyện mình với ông Giêsu: «Ông Giêsu ơi! Con thấy ông im lặng con không biết ông có nghe con không, nhưng con cũng cứ nói với ông…». Sau khi nói chuyện với ông Giêsu, Hạnh cảm thấy trong lòng nhẹ hẵn. Những u uất từ bao lâu nay như vơi bớt.

Một lần kia có một soeur thấy Hạnh trong nhà nguyện và thấy Hạnh khóc, bà để ý theo dõi Hạnh và nói với mẹ Bề Trên «sao em thấy con Hạnh nó vào nhà nguyện và nó khóc». Tuy vậy các soeur thường tôn trọng chuyện riêng tư của Hạnh nên không gạn hỏi nhiều. Chỉ có mẹ Bề Trên hỏi Hạnh có chuyện gì không, Hạnh nói với bà không có gì, và bà cũng không hỏi Hạnh nữa. Nhưng vào một buổi chiều, tự nhiên Hạnh thấy muốn nói với bà tất cả những nỗi niềm u uất trong lòng của mình. Hạnh đến bên mẹ Bề Trên và kể cho mẹ nghe tất cả tâm sự của mình, từ chuyện ba má Hạnh ly dị, Hạnh phải sống với bà, chuyện Hạnh đi vượt biên rồi sinh hoạt Gia đình Phật tử…về cái nhìn không mấy thiện cảm về đạo công giáo về các cha, các soeur…đến cả chuyện Hạnh sợ các bà soeur như thế nào. Tuy nhiên, bây giờ Hạnh mới tự tìm hiểu và khám phá ra sự thật không phải như vậy. Hạnh cảm thấy hối tiếc vì đã hiểu sai về đạo và quả thật là đã từng ghét các bà soeur. Sau giây phút tâm sự với mẹ Bề Trên, Hạnh cảm thấy lòng nhẹ tênh như trút được gánh nặng những ưu tư chồng chất bấy lâu nay.

Từ lúc đó, Hạnh càng thương mẹ Bề Trên hơn và tin tưởng bà, coi bà như một người mẹ thật sự của Hạnh . Cái nhìn ác cảm ngày xưa được thay bằng lòng kính trọng và tình thương mến. Hạnh nhận ra một điều chính mẹ Bề Trên đã chinh phục Hạnh, chính đời sống và cung cách đối xử nhân hậu của bà đã thay đổi não trạng của Hạnh.

 

 

5. Linh thao và Gặp Chúa

Một hôm, sau khi tan học ở trường về, các bạn Công giáo rủ Hạnh tham dự khoá linh thao. Hạnh chưa từng biết linh thao là gì nhưng cũng về xin Soeur Bề Trên cho Hạnh đi tham dự khoá linh thao. Bà Bề Trên này lạ thật, xin cái là bà cho liền; bà không hề hỏi lý do hay nói rằng đi làm gì vì con là phật tử chính hiệu con nai vàng ngơ ngác. Thế là lần đầu tiên Hạnh được tham dự khoá linh thao với cảm giác thật ngỡ ngàng. Trong những ngày linh thao Hạnh xúc động thật sự. Lời Chúa qua vị linh mục hướng dẫn giúp cho Hạnh hiểu rõ hơn ý nghĩa cuộc sống. Chúa Giêsu chính là sự sống và tình yêu,  hiểu được những gì phải làm, những gì nên tránh.  Thật sự là trước đây khi ở trong Gia đình Phật tử, Hạnh thấy giáo lý nhà Phật lơ mơ không rõ ràng.

Sau khi tham dự khoá linh thao trở về, dường như trong tâm hồn Hạnh có một sự biến đổi. Hạnh bắt đầu thích đi nhà thờ. Hạnh xin bà Bề Trên cho Hạnh đi nhà thờ, bà cũng đồng ý cho đi. Hạnh nghe cha xứ ở đó giảng thật hay và đánh động. Cứ thế chủ nhật nào Hạnh cũng thích đi nhà thờ để nghe cha giảng. Những nghi ngờ trước đây không còn nữa mà được thay thế bằng một niềm tin đơn sơ chân thành.

 

Hạnh bắt đầu xin học giáo lý công giáo và sau một thời gian học đạo, được lãnh nhận bí tích Rửa tội. H. nói ngày được Rửa tội cha xứ còn cười nói với Hạnh không được trở lại Phật tử nữa đó nghe! Hạnh nghĩ có Chúa thật sự trong cuộc đời này. Điều mà từ bao lâu nay H. chưa bao giờ biết và nghĩ tới. Từ nay H. tin rằng cuộc đời của H. có Chúa dẫn dắt. Tuy nhiên, một biến cố đau buồn đến với H. là sau ngày Hạnh được rửa tội thì mẹ Bề Trên được Chúa gọi về. Hạnh đau đớn như mất một người mẹ. Bởi vì chính bà như là người mẹ thứ hai đã mang đến cho H. cuộc sống mới và làm thay đổi cuộc đời của H. .

Rồi Hạnh lập gia đình với một người công giáo, nghe nói anh ấy là dân «ta ru»[1] và cả hai cùng sinh hoạt  trong ca đoàn nhà thờ.

Hiện tại, gia đình sống rất Hạnh phúc và có 3 đứa con: hai trai, một gái và sắp có thêm một đứa nữa. Hạnh kể: «Năm ngoái con bị bệnh nặng vì quá lo lắng cho chồng đang bị thất nghiệp; nên con mất ngủ, tinh thần sa sút trầm trọng, người con ốm tong ốm teo. Một buổi sáng con thức dậy, người choáng váng, không đi nỗi, phải gọi xe cấp cứu đưa vào bệnh viện gấp. Khi nằm ở bệnh viện con có cảm giác mình sắp chết. Tự nhiên trước cái chết con sợ quá chừng, con nói với Chúa «Chúa ơi! Con chưa muốn chết, con chưa muốn chết. Chúa đừng cho con chết lúc này nghe Chúa! và Chúa cho con sống đến hôm nay».

 

6. Gia đình Công giáo



Hôm đầu tiên tôi đến nhà anh chị Kh. H, sau khi ăn tối, anh chị và mấy đứa nhỏ ngồi chung quanh  trong phòng khách. Anh chị đốt một cây nến để ở giữa và bắt đầu buổi cầu nguyện. Chị làm dấu và nói với đứa lớn nhất cầu nguyện trước, rồi lần lượt đến hai đứa nhỏ cầu nguyện sau. Nó cầu nguyện như thế này: «Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đã cho con có ba, có mẹ. Chúa cho con có nhà để ở, có xe để đi, có thức ăn, có áo quần để mặc, có trường để học, có các Cha đến thăm…». Sau đó anh chị cầu nguyện và sau cùng tôi cũng cầu nguyện và chúc lành cho gia đình. Tôi nói với anh chị buổi đọc kinh tối gia đình rất dễ thương, cố gắng giữ để tập cho các con có lòng tin và yêu mến Chúa. Giờ kinh tối cũng là bài học giáo lý căn bản đơn sơ bắt đầu từ trường “giáo lý gia đình”. Lời Chúa và những mầu nhiệm trong đạo sẽ thấm vào lòng trẻ thơ qua những lời kinh đơn sơ. Đó chính là kinh nghiệm của tôi khi còn nhỏ. Tối nào ba mẹ cũng đọc kinh và bắt tôi đọc kinh. Những lời kinh đó đã thấm vào trong ký ức của tôi, mà cho đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc. Một trong những kinh đó là kinh «Kính nguyện Chúa Thánh Thần» ba tôi rất thích đọc vào mỗi thứ hai đầu tuần, đọc theo giọng miền Trung, «Kính (a) nguyện (a) Chúa (a) Thánh (a) Thần, Cực thánh Ngôi Ba Thiên Chúa. Ơn thiêng liêng cứu đời, nguyện trông hiện xuống phàm gian, sáng nhiệm bởi trời, xin thấu thửa lòng chúng tử yến thiêng…». Ngày đó tôi vẫn đọc thuộc lòng mà không hiểu gì cho đến khi tôi vào học ở Đại Chủng viện Sài gòn tôi mới biết đó là kinh «Veni Sancte Spiritus» mà phụng vụ Giáo Hội vẫn đọc trong ca tiếp liên ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. "Lạy Chúa Thánh Thần Xin Ngài ngự đến, và từ trời cao xin tỏa ánh quang minh của Ngài ra. Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến, Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến! Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng ủy lạo dịu dàng. Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi lúc lệ rơi..."

 

***

 

 

 

Kết

Qua câu chuyện của chị Hạnh tôi nhận ra tình yêu vô bờ của Chúa trong hành trình đức tin của chị. Tình yêu cứu độ phổ quát của Chúa dành cho hết mọi người không loại trừ một ai và Chúa luôn đi bước trước, luôn có sáng kiến. Khi yêu ai mình cũng có sáng kiến tìm cách đến với người đó. Chúa cũng vậy, Chúa yêu con người Chúa cũng tìm cách đến với con người. Chúa đã dùng những cách thế và những hoàn cảnh đặc biệt trong cuộc sống của từng người; những cách thế đôi khi con người không thể hiểu được để cuối cùng hướng họ đến ơn cứu độ. Tôi cũng thấy trong hành trình đức tin của anh chị em, có sự đồng hành của nhiều người, đó là mối dây hiệp thông trong lòng Giáo Hội, mối dây hiệp thông sâu xa bắt nguồn từ chính Chúa Ba Ngôi. Những người bạn trẻ đã mời người bạn của mình đi tham dự khoá linh thao một cách hồn nhiên đơn sơ trong tình bạn chân thành. Tuy nhiên, với cái nhìn đức tin, có thể nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần qua các bạn trẻ và lời mời gọi của họ. Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong lòng Giáo Hội. Suốt cuộc đời, bà mẹ Bề Trên chắc đã hoàn thành được nhiều sứ mệnh, trong đó việc giúp tái sinh bé Hạnh là một điểm son. Hình ảnh và cách sống, cách đối xử của Mẹ Bề Trên đối với Hạnh như là cách thể hiện của phương pháp sư phạm mới mẻ cho việc truyền giáo ngày hôm nay: Đón nhận, lắng nghe, cảm thông, tôn trọng, yêu thương. Cuộc hành trình đức tin của chị Hạnh là một chứng từ sống động, qua đó ta thấy rõ bàn tay Chúa quan phòng dẫn đưa, mỗi người một cách. Đồng thời, để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài; Chúa cũng cần sự cộng tác của mỗi người chúng ta.  

 

Chúa gọi tên con

Từ câu chuyện của người bạn trên đây, tôi suy tư về ơn gọi được làm người và làm con Chúa của mỗi người Kitô hữu và cám ơn Chúa về ơn gọi linh mục của mình. Tất cả đều xuất phát từ tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Dòng suy tư đã cho tôi cảm hứng dệt thành  nhạc khúc: Chúa gọi tên con, như là lời nguyện cầu khép lại câu chuyện chia sẻ này.

 

 

 

Lạy Chúa!

Chúa tìm con khi con không tìm Chúa.

Chúa biết con khi con chưa biết Chúa.

Chúa gọi con khi con đang hờ hững.

Chúa ơi! Nay con biết rằng

Chúa rất nhân từ, Chúa quá yêu con.

Lạy Chúa!

Chúa chờ con khi con không đợi Chúa.

Chúa thấy con khi con không thấy Chúa.

Chúa gặp con khi con đang lẫn trốn.

Chúa ơi! Con như chiên lạc

Chúa đưa con về, Chúa vác trên vai.

Lạy Chúa!

Chúa chọn con khi con không chọn Chúa.

Chúa yêu con khi con chưa yêu Chúa.

Chúa ở bên con khi con xa lìa Chúa.

Chúa ơi! Nay con hiểu rồi,

trong trái tim Người, Chúa đã khắc tên con.

 

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong tiếng gió chiều thì thào.

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong nắng ấm ban mai.

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong tấm lòng người mẹ.

Chúa đến với con,

Chúa gọi tên con trong trái tim yêu thương.

 

Lm. Giang Hạ

(mùa hè tại Ottawa - Canada

tháng 09/2009)

 

 


 



 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] "ta ru" nói lái thành "tu ra", ý nói người tu xuất.

Đọc tiếp »

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2025

Hoán cải Tình yêu Hôn Nhân - Học Hỏi Tông Huấn của Đức Thánh Cha Amoris Laetitia

 

 

TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA

CHƯƠNG IV: TÌNH YÊU TRONG HÔN NHÂN

 CHIA SẺ VỚI CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN BÀ RỊA

THƯỜNG HUẤN THÁNG 3/2017

L.m. Gioan B. Trương Đình Hà

 

Dẫn nhập

Chương 4 của Tông Huấn Amoris Laetitia, Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến tình yêu trong hôn nhân, được soi sáng bởi Bài Ca Đức Ái của Thánh Phaolô trong 1 Cô-rin-tô 13,4-7. Có thể nói dây là một chương tổng hợp với suy tư hết sức súc tích nhưng rõ ràng với ngôn từ bình dân, về tình yêu con người theo các thuật ngữ cụ thể đặt nền tảng trên Thánh Kinh. Đây sẽ là những chỉ dẫn quý giá cho các gia đình, nhưng chúng ta cũng rút ra nhiều bài học để sống. Trong giới hạn của buổi tĩnh tâm hôm nay, xin được khép góc ở chương IV. Khởi đi từ “Bài ca đức mến” của thánh Phaolô.

“Bài ca đức mến” của Thánh Phaolô

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,

Không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,

Không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,

Không nóng giận, không nuôi hận thù,

Không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.

Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.

(1 Cr 13,4-7).

1.  Tình yêu thương thì “nhẫn nhục” (μακροθυμει) (macrothymei)

Trích và tìm hiểu Số 91. Từ μακροθυμει (macrothymei) trong tiếng Hy Lạp: kiên nhẫn, nhẫn nhục, trì chí, nhịn nhục : “Nhịn nhục” được định nghĩa là “kiên nhẫn chịu đựng sự sai trái hoặc khiêu khích, đồng thời vẫn hy vọng cải thiện mối quan hệ giữa đôi bên”. Chữ này không đơn giản chỉ nói tới việc “chịu đựng mọi sự”. Trong Cựu Ước nó còn mang ý nghĩa  “chậm nổi giận”,  Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa, tín thành”. (Xh 34,6) ; "Ðức Chúa chậm giận và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác (Ds 14,18). Cả trong tiếng Hippri lẫn Hy lạp cụm từ “nhẫn nhục” đều có nghĩa là: kiên nhẫn, kiềm chế và chậm giận. (xem. Ds 14,18; Gl 2,13; Gn 4,2; Tv 86,15; 103,8; 145,8; Nkm 9,17; Cn 14,29; 15,18; 16,32)

Bản văn của Thánh Phaolô khi dùng chữ này cần được đọc dưới sự soi sáng của Sách Khôn Ngoan, là Sách vốn tán dương sự kiềm chế (nén giận) của Thiên Chúa, cũng như mở ra không gian cho người tội lỗi có cơ hội ăn năn, mà vẫn nhấn mạnh tới uy quyền của Người. Sự “kiên nhẫn” của Thiên Chúa, được chứng tỏ qua lòng thương xót của Người đối với những người tội lỗi, là dấu chỉ uy quyền thực sự của Người. (xem Kn11,23; 12,2, 15-18) “Nhưng Người thương xót mọi người, vì Người toàn năng phép tắc”.

15“ Nhưng Người công minh,

Người điều khiển mọi sự cách công minh,

Người nghĩ rằng lên án kẻ không đáng phạt

là trái với quyền năng của Người.

16 Vì sức mạnh của Người là đầu mối công minh,

Người có quyền trên mọi sự,

khiến với mọi sự Người xử khoan dung.

17 Người tỏ bày sức mạnh,

khi có ai không tin Người quyền năng trọn hảo,

còn biết mà dám làm càn, Người trị tội to gan.

18 Nhưng tự chủ trên sức mạnh, Người lấy từ nhân xét xử,

Người quản cai chúng tôi với lượng cả bao dung,

vì sử dụng quyền năng là việc của Người, khi Người muốn.”

Số 92.

Nhẫn nhục hay kiên nhẫn không có nghĩa để mình luôn bị đối xử tệ, khoan thứ những vụ gây hấn thể lý hoặc để người khác lợi dụng ta. Hay cho phép người khác đối xử với ta như một đồ vật. ĐTC cho thấy vấn đề mất kiên nhẫn là khi nào ta tưởng mối liên hệ ấy hay người ấy hẳn phải hoàn hảo, hay khi ta đặt ta vào trung tâm và mong chờ mọi sự sẽ xoay chiều thuận lợi cho ta. Nhưng rồi mọi sự không theo ý muốn của mình và vì vậy mà mọi sự làm mình mất kiên nhẫn, mọi sự làm ta phản ứng một cách hung hăng. Nếu không vun đắp tính kiên nhẫn, ta sẽ luôn tìm kế bào chữa cho việc phản ứng đầy giận dữ. Kết cục ta sẽ mất hết khả năng sống với nhau, phản xã hội, không kiểm soát được các bốc đồng của ta, và gia đình ta sẽ trở thành bãi chiến trường.

Thư Êphêsô: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4:31).

ĐTC dạy rằng: “Đức nhẫn nhục hay Kiên nhẫn được lớn lên, khi ta thừa nhận rằng người khác cũng có quyền sống trong thế giới này, cùng với tôi, trong con người hiện thực của họ... Lòng yêu thương luôn có khía cạnh cảm thương sâu xa dẫn ta tới chỗ chấp nhận người khác như là một phần thế giới này, ngay cả lúc họ hành động khác với ý thích của tôi” .

Áp dụng trong đời sống gia đình. Kiên nhẫn đón nhận người khác (người phối ngẫu) với những khác biệt của họ.

2. Nhân hậu χρηστευεται (chrestéuetai)

Lòng yêu thương phục vụ người khác

Số 93: “nhân hậu” χρηστευεται (chrestéuetai).  Bởi chữ gốc chrestós: người tốt lành, người tỏ lòng tốt bằng hành động. Từ này liên kết với từ trước nó makrotimei và được dùng như một bổ ngữ. Thánh Phaolô muốn minh xác rằng “kiên nhẫn” không phải là một thái độ hoàn toàn thụ động, nhưng là một thái độ được kèm theo bằng hành động, bằng tương tác đầy năng động và sáng tạo với người khác. Chữ này muốn xác định rằng lòng yêu thương có lợi ích và có tính giúp đỡ người khác. Vì lý do này, nó được dịch là “hiền hậu”; lòng yêu thương luôn sẵn sàng giúp đỡ.

Vì vậy tình yêu đích thực trong đời sống hôn nhân phải là tình yêu biết giúp đỡ người khác.

Số 94: ĐTC phân tích thêm cho ta thấy, trong bản văn thánh Phaolô nhấn mạnh tình yêu không chỉ là một cảm xúc thuần túy, mà nên hiểu nó theo nghĩa động từ “yêu” của tiếng Hípri; tức là “làm điều tốt”. Như Thánh Inhaxiô thành Loyola từng nói, “Lòng yêu thương được biểu lộ bằng hành động hơn là bằng lời nói”[1] (106). Nó biểu lộ hạnh phúc cho đi, tính cao thượng và vẻ cao cả của việc chúng ta tự cho đi một cách hào phóng không đòi được đền trả, chỉ vì niềm hân hoan được cho đi và phục vụ.

Trong ý nghĩa này chúng ta gặp thấy nơi tình yêu của Chúa Kitô yêu nhân loại. Ngài cho đi chính mạng sống của mình, Ngài đến phục vụ cho con người và phục vụ cho đến chết. Ngài chết cho người mình yêu. Tình yêu đích thực trong hôn nhân cũng phải là tình yêu phản ánh tình yêu của Chúa Giêsu, biết giúp đỡ người khác, biết phục vụ chứ không chỉ bắt người phối ngẫu phục vụ mình. Và phải tiến tời mức cảm thấy hạnh phúc và niềm vui khi được cho đi.

3. Tình yêu không ghen tương

Trích và khai triển số 95 trong Tông Huấn. “Tình yêu thì không ghen tương”. Chữ “ghen tương” do động từ zelos (ghen tương hay ghen tị) diễn tả như là trái ngược với lòng yêu thương. Điều này có nghĩa: lòng yêu thương không có chỗ dành cho việc không vui trước vận may của người khác (xem Cv 7:9; 17:5). Ghen tị là buồn bực trước một điều thiện hảo của người khác, nó chứng tỏ ta không quan tâm đến hạnh phúc của người khác mà chỉ tập chú vào lợi ích của ta. Trong khi yêu thương đưa chúng ta ra khỏi chính mình, thì ghen tị lại qui chúng ta trở về với cái tôi của mình”.

Ta rút ra mấy điểm về tình yêu đích thực từ Tông Huấn:

- Lòng yêu thương đích thực biết đánh giá cao các thành tựu của người khác.

- Nó không coi họ như môt đe dọa.

- Tình yêu đích thực giải thoát ta khỏi vị chua chát của lòng ghen tị.

- Tình yêu đích thực giúp ta nhận ra rằng mọi người đều có những ơn phúc khác nhau và mỗi người có một lối đi riêng ở trong đời. Nên trong khi ta cố gắng khám phá ra con đường tiến tới hạnh phúc của riêng mình, thì ta cũng để người khác tìm ra con đường riêng của họ. Nhu thế tình yêu đích thật đưa đến tự do, tôn trọng tự do của người khác.

 Ghen tị là cảm giác tức tối với người khác vì những gì họ có như tài sản, sự thịnh vượng, lợi thế v.v. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh, từ thường được dịch là “ghen tị” không chỉ nói đến cảm giác muốn được bằng người khác mà còn muốn chiếm đoạt những gì họ có. Câu chuyện của Cain và Abel, Cain ghen tức với Abel đến nỗi giết chêt em. (St 4:4-8). Mười người anh của Giuse ghen tị khi thấy chàng được cha thương yêu hơn. Họ càng ghét Giuse hơn khi nghe chàng kể về những giấc mơ mang ý nghĩa tiên tri của mình họ muốn giết Giuse và cuối cùng bán luôn Giuse (St 37:4-11, 23-28, 31-33). Vua Sa-lô-môn đã thấy lòng ghen tị gây tai hại đến mức nào. Một phụ nữ có đứa con mới sinh bị chết. Bà cố lừa người phụ nữ ở chung nhà rằng con của người ấy là đứa bé đã chết. Khi vua Sa-lô-môn xét xử vụ kiện này, kẻ nói dối thậm chí tán thành việc giết đứa bé còn sống. Tuy nhiên, vua đã ra lệnh giao lại đứa bé cho người mẹ thật. (1 Vua 3:16-27). Trong thời đại chúng ta, có ông Kim Jong Un hiện là chủ tịch ở Bắc Triều Tiên, từ lúc ông lên nắm quyền lãnh đạo cao nhất đã xử tử hàng trăm người thuộc quyền ông[2]. Ngay cả những người ruột thịt trong gia đình cũng bị ông giết chết chỉ vì lòng ghen tị sợ họ sẽ tiếm quyền. Vừa rồi vào ngày 13/2/2017 báo chí đưa tin[3] vụ ám sát một người tên là Kim Chol mang hộ chiếu ngoại giao Triều tiên tại phi trường quốc tế Kuala Lumpur của Malaysia, mà ông Thủ Tướng Malaysia cũng như Hàn Quôc và Nhật Bản đều cho người bị sát hại chính là Kim Jong Nam[4], anh cùng cha khác mẹ với ông Kim Jong Un. Chỉ vì ông này có tư tưởng đổi mới và dám chỉ trích chế độ gia đình trị tại Bình Nhưỡng. Ông đã từng bị người em ra lệnh ám sát vào năm 2012 tại Triều tiên nhưng thoát chết. Như vậy ta thấy lòng ghen tị như là chất độc nếu không kềm chế sẽ biến con người thành ác độc, tàn nhẫn.

Số 96. Tóm lại, yêu thương có nghĩa là chu toàn hai giới răn cuối cùng của Lề Luật Thiên Chúa: “Ngươi không được ham muốn nhà người ta; ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta” (Xh 20,17). Tình yêu khơi lên một niềm quí trọng chân thành đối với mỗi người và nhìn nhận quyền được hạnh phúc của người khác. Tôi yêu con người này, và tôi nhìn người ấy với ánh nhìn của Thiên Chúa là Cha, Đấng trao ban cho chúng ta mọi sự “để chúng ta được hưởng dùng” (1 Tm 6,17), và như vậy, tôi chấp nhận trong lòng rằng người ấy có thể vui hưởng một khoảnh khắc hạnh phúc.

4. Tình yêu thương không vênh vang περπερευεται, không tự đắc (φυσιουται):

Trích và khai triển số 97 trong Tông Huấn. Diễn ngữ (περπερευεται), (perpereúetai) diễn tả sự vênh vang, Nghĩa là lo lắng về sự trỗi vượt của mình nhằm tạo ấn tượng trên những ngươi khác. Những người biết yêu thương không những tự chế, không nói quá nhiều về chính họ, mà còn tập chú vào người khác; họ không cần là tâm điểm để được chú ý. Chữ sau đó, (φυσιουται) (physioútai): kiêu căng, cũng tương tự như thế, cho thấy lòng yêu thương không ngạo mạn. Nó có nghĩa ta không tự “lên mặt” trước mặt người khác. Ta tự xem mình cao trọng hơn sự thực mình là, vì tưởng rằng mình “đạo đức” hơn hay “khôn ngoan” hơn. Thánh Phaolô còn dùng động từ này trong những trường hợp khác nữa, như khi ngài nói “sự hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo, còn tình yêu thì xây dựng” (1 Cr 8,1). Một số người còn nghĩ rằng họ cao trọng vì họ hiểu biết hơn những người khác, và ra sức đòi hỏi và khống chế những người khác, trong khi điều thực sự làm ta cao trọng chính là một tình yêu biết cảm thông, quan tâm, và nâng đỡ những người yếu đuối. Trường hợp chồng “chúa vợ tôi” có những người chồng bắt vợ phục vụ mình như tôi tớ.

Trong số 98, ĐTC nói đến người Kitô hữu sống thái độ này trong cách họ cư xử với những người thân trong gia đình ít hiểu biết hơn mình về đức tin, họ là những người yếu đuối hoặc thiếu một xác tín chắc chắn. Đàng khác, lòng yêu thương có đặc điểm khiêm nhường; nếu ta muốn hiểu biết, tha thứ và phục vụ người khác với tấm lòng, thì ta phải chữa trị tính kiêu ngạo của ta để lòng khiêm nhường lớn mạnh. Đức Giêsu lưu ý các môn đệ rằng trong thế giới của quyền lực mỗi người đều tìm cách để thống trị kẻ khác, và bởi thế Người nói “giữa anh em thì không như thế” (Mt 20,26). Lối nghĩ về tình yêu Kitô giáo không phải là lối nghĩ của người đứng bên trên người khác và cần để họ biết đến quyền lực của mình, nhưng là lối nghĩ “ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27). Trong đời sống gia đình, luận lý học thống trị hay cạnh tranh ai là người thông minh nhất hay có quyền nhất sẽ tiêu diệt lòng yêu thương. Lời khuyên răn của Thánh Phêrô cũng được áp dụng vào gia đình: “anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5:5).

Có một người chồng tân tòng kể cho tôi nghe. Anh ta làm phép chuẩn khác đạo với vợ.  Khi về chung sống với nhau người vợ không hề nói gì với anh về đạo chị cứ để anh tự do theo tôn giáo của anh. Nhưng có một điều anh nhận thấy là tối nào cứ đúng 8g00 PM chị tắt tivi và thắp đèn bàn thờ đọc kinh, anh không biết chị đọc kinh gì với Chúa, nhưng thấy chị luôn kiên trì giữ giờ kinh như thế không bao giờ bỏ. Từ đó anh cảm phục chị, việc gia đình chị lo chu toàn hết và có đời sống đạo đức thất tốt anh thật sự bị lôi cuốn bởi chị và anh quyết định học đạo và rửa tội, bây giò tuy đạo mới nhưng anh cũng rất tích cực làm việc tông đồ, làm ông trùm trong họ đạo. Tôi nghĩ rằng chính thái độ khiêm tốn của người vợ, và âm thầm kiên trì cầu nguyện của chị đã đưa người chồng trở về với Chúa.

5. Lòng yêu thương không khiếm nhã (aschemonéi)

Trích và khai triển số 99. Diễn ngữ  aschemonei (ασχημονει): Từ ngữ này muốn nói rằng tình yêu thì không hành động thô lỗ, khiếm nhã, không cư xử gay gắt. Các cách thức, lời nói và cử chỉ của nó đem lại sự dễ chịu và không chua chát hay cứng cỏi. Tình yêu đích thực thì không muốn làm cho người khác đau khổ. Hòa nhã “là một trường học dạy sự mẫn cảm và tinh thần vô vị lợi”, nó đòi người ta “phải vun xới tâm tư và tình cảm của mình, học biết lắng nghe, ăn nói, và có những lúc cũng biết thinh lặng”[5]. Hòa nhã không phải là một lối sống mà một Kitô hữu có thể chọn lựa hay từ chối: nó là thành phần trong những đòi hỏi thiết yếu của tình yêu, bởi thế “mỗi người đều phải để tâm sống thuận thảo với những người xung quanh mình”.[6] Mỗi ngày, “việc bước vào đời sống của một người khác, ngay cả khi người ấy vốn đã là phần đời của mình, thì vẫn đòi hỏi một thái độ tế nhị không xâm phạm, điều này có sức làm mới lại niềm tin tưởng và sự kính trọng. Tình yêu càng thân mật và sâu xa, càng đòi hỏi tôn trọng tự do và khả năng chờ đợi người ấy mở cửa lòng ra”.[7] Trong đời sống hôn nhân người ta cũng dễ quên điều này, lúc đầu thì anh với em, sau một thời gian bà với tui, sau nữa là tao với mày…

Để gặp gỡ người khác cách chân thực và cởi mở, ĐTC gợi ý cần có “một cái nhìn nhân hậu” là điều chủ yếu (số 100). Nghĩa là tránh thái độ tiêu cực lúc nào cũng sẵn sàng vạch trần các thiếu sót của người khác trong khi làm ngơ các thiếu sót của mình.

- Cái nhìn nhân hậu giúp ta nhìn xa hơn các giới hạn của chúng ta, biết kiên nhẫn và hợp tác với người khác, bất chấp các dị biệt của ta.

- Những ai yêu thương đều có khả năng nói những lời phấn khởi, gây sức mạnh, an ủi, và khuyến khích, nói lời tích cực. Đó là các lời chính Chúa Giêsu từng nói: “Này con, cứ yên tâm!” (Mt 9:2); “này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” (Mt 15:28); “Hãy trỗi dậy!” (Mc 5:41); “Hãy đi bình an!” (Lc 7:50; “Đừng sơ!” (Mt 14:27). Trong đời sống gia đình, ta cần học theo gương Chúa Giêsu để có những lời nói tích cực khích lễ nâng đỡ nhau.Thay vì nói hành nói xấu người này người kia.

6. Lòng yêu thương thì quảng đại (không tìm tư lợi)

Thường chúng ta hay lý luận rằng để yêu một người khác, ta phải yêu chính mình (số 101). Tuy nhiên, bài ca yêu thương của Thánh Phaolô quả quyết rằng lòng yêu thương “không tìm tư lợi” cũng không “tìm điều của riêng mình”. Cùng một ý tưởng này trong thư gửi giáo đoàn Philipphê: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2:4).  Như vậy sự quảng đại hiến thân cho người khác còn cao quí hơn cho tình yêu đối với chính bản thân mình. ĐTC nói: Ưu tiên yêu thương mình chỉ có thể được hiểu như một điều kiện tâm lí, xét vì ai không có khả năng yêu thương chính mình thì sẽ khó yêu thương người khác: “Xấu với bản thân thì tốt với ai được?

- ĐTC cũng trích dẫn thánh Tôma Aquinô đã giải thích rằng “đức ái hệ tại ở ước muốn yêu thương hơn là ước muốn được yêu thương”;[8] điển hình ở “những người mẹ, là những người yêu thương nhiều nhất, tìm cách để yêu hơn là để được yêu”.[9] Bởi thế, tình yêu có thể vượt lên trên sự công bằng và tuôn tràn một cách vô cầu mà “không hề hi vọng được đền đáp” (Lc 6,35), và đạt tới tình yêu vĩ đại nhất, đó là “việc hiến mạng sống mình” cho người khác (cf. Ga 15,13). Liệu một lòng quảng đại như thế, lòng quảng đại làm ta có thể dâng hiến một cách vô cầu, và dâng hiến cho đến cùng, còn có thể tồn tại không? Chắc chắn là có, bởi vì đó là điều Tin mừng đòi hỏi: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).

7. Tình yêu không nóng giận không nuôi hận thù - (παροξυνεται) paroxýnetai (bị kích động)

Hôm nay người ta hay dùng từ “manh động”

Số 103. Nếu diễn ngữ thứ nhất trong bài ca của Thánh Phaolô nói tới việc phải kiên nhẫn, không phản ứng thô  lỗ ngay tức khắc đối với các yếu đuối và lỗi lầm của người khác, thì chữ kế tiếp ngài sử dụng là paroxýnetai (παροξυνεται), liên hệ nhiều hơn tới việc bất bình nội tâm do một điều từ bên ngoài gây ra. Nó chỉ phản ứng dữ dội từ bên trong, một sự nóng giận ẩn khuất khiến ta bực mình liên quan tới người khác, như thể họ gây rối hay đe dọa ta và do đó cần được xa tránh. Nuôi dưỡng thứ thù nghịch nội tâm như thế không ích lợi gì cho bất cứ ai. Nó chỉ gây mích lòng và ra xa lạ. Bất bình chỉ lành mạnh khi nó khiến ta phản ứng chống một bất công trầm trọng. “Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con-cái mình giận-dữ, hãy dùng sự sửa-phạt khuyên-bảo của Chúa mà nuôi-nấng chúng nó”. (Ê-phê-sô 6:4)

Số 104. - Tin Mừng dạy ta nhìn ra cái xà trong chính mắt ta (xem Mt 7:5). - “Đừng để sự ác thắng được mình” (Rm 12:21).- “Ta đừng mệt mỏi trong việc làm điều thiện” (Gl 6:9). Đột nhiên cảm thấy ước muốn trả thù là một chuyện mà chiều theo uớc muốn ấy, để nó bén rễ trong tâm hồn ta, là một chuyện khác:- “Hãy giận dữ nhưng đừng phạm tội; đừng để mặt trời lặn trên sự giận dữ của anh em” (Ep 4:26). - Lời khuyên của ĐTC là đừng để một ngày qua đi mà không làm hòa trong gia đình. “và để làm hòa chỉ cần một việc nhỏ mọn thôi, cũng đủ để hòa khí gia đình được tái lập. Chỉ một mơn trớn nhỏ, không cần phải nói năng chi. Nhưng đừng để một ngày qua đi mà không làm hòa trong gia đình bạn[10] - Làm điều tích cực: Phản ứng đầu tiên của ta khi ta bị làm phiền nên là một phản ứng chúc lành tận đáy lòng, xin Chúa chúc lành, giải thoát và chữa lành người kia. “Ngược lại, hãy chúc lành, vì anh em đã được kêu gọi làm việc này, ngõ hầu anh em nhận được phúc lành” (1Pr 3:9). Nếu phải đấu tranh một sự ác, thì hãy đấu tranh; - nhưng ta phải luôn nói “không” với bạo lực trong gia đình.

 8. Lòng yêu thương thì tha thứ - Không chấp nhất sự dữ (ou logízetai to kakón)

Số 105. Một khi đã bén rễ trong trái tim ta, ý xấu sẽ dẫn ta tới chỗ hận thù sâu xa. Câu ou logízetai to kakón có nghĩa: “không chấp nhất sự dữ”; “ghim nó trong lòng”. Đối nghịch với hận thù là tha thứ, đó là thái độ tích cực luôn tìm cách hiểu các yếu đuối của người khác để miễn thứ. Như Chúa Giêsu đã nói, “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho họ; vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).

Trong đời sống gia đình người ta cứ đi tìm hết lỗi này tới lỗi nọ, tưởng tượng ra đủ thứ ác lớn hơn, giả định đủ thứ ý xấu, và do đó, hận thù cứ thế gia tăng và sâu xa hơn. Cứ thế, mọi lỗi lầm hay thiếu sót từ phía người phối ngẫu đều có thể gây hại tới mối dây yêu thương và bền vững của gia đình. Sâu xa hơn nữa nếu không giải hòa được nó sẽ âm ỉ và có nguy cơ den đến đổ vở. Tránh coi mọi vấn đề đều nghiêm trọng như nhau; bởi vì như thế, ta sẽ dễ cay nghiệt một cách không thích đáng đối với các thiếu sót của người kia. Ước muốn chính đáng thấy các quyền của mình được tôn trọng sẽ trở thành nỗi khao khát trả thù hơn là bảo vệ phẩm giá ta cách hợp lý.

Số 106. Thực hành:

- Khi ta đã bị xúc phạm hay làm cho thất vọng, sự tha thứ đáng mong ước, nhưng không phải là chuyện dễ dàng. - Cần có tinh thần hy sinh lớn lao mới duy trì được sự hiệp thông trong gia đình . - Đòi hỏi mỗi người và mọi người phải sẵn sàng và quảng đại mở lòng mình ra để hiểu, để chịu đựng, để tha thứ, để hòa giải. Không hề có gia đình nào lại không biết đến ích kỷ, bất hòa, căng thẳng và tranh chấp, tấn công bạo động và đôi khi gây tử thương cho cuộc hiệp thông của họ: do đó, mà xuất hiện nhiều hình thức chia rẽ đa dạng trong đời sống gia đình” (113).

Số 107. Ngày nay, ta nhìn nhận rằng để có thể tha thứ cho người khác, ta cần tới kinh nghiệm giải thoát biết tự hiểu và tha thứ cho chính mình… Ta cần học cách cầu nguyện cho dĩ vãng của mình, để biết chấp nhận chính ta, học cách sống với các hạn chế của ta, và thậm chí tha thứ cho chính ta, để có được cùng một thái độ như thế đối với người khác.

Số 108. -Và trên hết là chính ta có kinh nghiệm được Thiên Chúa tha thứ, được ơn thánh của Người công chính hóa chứ không phải do công phúc của riêng ta. Ta cảm nghiệm được một lòng yêu thương đi trước bất cứ cố gắng nào của ta, một lòng yêu thương không ngừng mở cửa, cổ vũ và khích lệ. Một tình thương tha thứ vô điều kiện và không thể mua bán được của Thiên Chúa đối với ta thì ta mới có thể tha thứ cho người xúc phạm đến mình.

9. Lòng yêu thương vui với người khác

Số 109. Diễn ngữ chairei epi te adikia cho thấy một cái gì đó tiêu cực ẩn sâu trong lòng người ta. Đó là thái độ độc ác của người vui mừng khi thấy người khác phải chịu sự bất công “không mừng trước sự bất công”. Diễn ngữ này được bổ nghĩa bởi cụm từ theo sau: synchairei te aletheia diễn tả điều tích cực, có nghĩa là “vui khi thấy điều chân thật”. Nói cách khác, chúng ta vui mừng về điều tốt lành của người khác, khi phẩm giá của họ được nhìn nhận, khi các khả năng và các việc tốt của họ được trân trọng. Trong gia đình thường gặp cả với vợ hoặc chồng mình, khi mà hết thương rồi đến độ ngầm vui mừng trong lòng trước những thất bại của người ấy.

Số 110- Thực hành: - Hãy có Niềm vui yêu thương, niềm vui mừng khi thấy điều tốt lành cho người khác thì chính họ cũng cảm thấy vui, và bằng cách ấy họ tôn vinh Thiên Chúa, vì “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9,7). - Chúa chúng ta đặc biệt trân trọng những ai tìm thấy niềm vui trong hạnh phúc của người khác. Nếu chúng ta không nuôi dưỡng khả năng của chúng ta biết vui hưởng trước những điều tốt lành của người khác mà chỉ chủ yếu tập trung vào các nhu cầu của mình, thì chúng ta đang tự đày đọa mình sống thiếu niềm vui, như Đức Giêsu nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Gia đình phải luôn là nơi mà bất cứ ai ở trong đó làm được điều gì tốt đẹp trong cuộc sống, đều biết rằng ở đó mọi người cũng sẽ mừng về điều ấy với mình. 

10. Lòng yêu thương tha thứ tất cả παντα  στεγει (panta stegei)

Số 111. Bài ca đức mến hoàn tất danh mục với bốn diễn ngữ nói lên tính toàn thể: “tất cả”. [Tình yêu] tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả.

Số 112. Trước hết, [tình yêu thì] “tha thứ tất cả” (panta stegei). Điều này thì khác với việc “không chấp nhất sự dữ”, bởi vì từ này có liên quan tới việc sử dụng cái lưỡi; nó có thể có nghĩa là “giữ thinh lặng” về một điều tiêu cực có thể có nơi người khác. Nó nghĩa hạn chế sự xét đoán, kiềm giữ khuynh hướng muốn làm bật ra một lời lên án nghiệt ngã và bất nhẫn: “Đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán” (Lc 6,37). Lời Thiên hàm Chúa bảo chúng ta cho dẫu đi ngược lại với thói quen sử dụng cái lưỡi của mình: “Đừng nói xấu nhau, thưa anh chị em” (Gc 4,11). ĐTC nói: bôi nhọ hình ảnh người khác là một cách tôn tạo hình ảnh của mình, nhằm trút sự oán hận và ghen tị mà không lưu tâm đến tai hại mình có thể gây ra. Rất nhiều khi người ta quên rằng phỉ báng người khác có thể là một tội lớn; một xúc phạm nghiêm trọng đến Thiên Chúa, khi nó xâm phạm nặng nề đến thanh danh của người khác và gây ra những tổn thất rất khó sửa chữa. Vì thế Lời Chúa tuyên bố cứng rắn về cái lưỡi khi nói rằng nó “là thế giới của sự ác”, nó “làm cho toàn thân bị ô nhiễm đốt cháy toàn thể cuộc đời” (Gc 3,6); nó là một “sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người” (Gc 3,8). Nếu như cái lưỡi có thể được dùng để “nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa” (Gc 3,9), thì tình yêu lại trân trọng hình ảnh của người khác một cách tinh tế đến nỗi cả bảo vệ thanh danh của kẻ thù. Chúng ta không bao giờ được quên đây chính là đòi hỏi  này của tình yêu.

Số 113. - Thực hành: Những đôi vợ chồng yêu thương nhau và thuộc về nhau nói tốt về nhau, họ tìm cách nêu lên mặt tốt của người bạn đời chứ không phải điểm yếu hay những sai lầm của người ấy.

-Bất luận trường hợp nào, đều giữ im lặng để không làm hại thanh danh người kia.

- Hành động này xuất phát từ một thái độ nội tâm. Họ nhắc nhớ rằng những khuyết điểm ấy chỉ là một phần chứ không phải là toàn bộ bản thân của người kia. Nguyên tắt: Một sự bất bình trong quan hệ không là tất cả mối quan hệ. (sự kiện Malaysia và Bắc Triều Tiên)

- Hãy nhớ rằng mỗi người đều mang trong mình một hỗn hợp của ánh sáng và bóng tối. Tình yêu sống chung với sự bất toàn, “dung thứ tất cả” và biết im lặng trước những giới hạn của người mình yêu.

11. Lòng yêu thương tin tưởng mọi sự (παντα πιστευει) Panta pisteúei

 Số 114. Diễn ngữ Panta pisteuei. [Tình yêu] “tin tưởng tất cả”.  Theo nghĩa “tin tưởng” mà chúng ta vẫn dùng. Vấn đề không chỉ là không nghi ngờ người kia đang nói dối hay lừa lọc ta, nhưng sự tin tưởng căn bản ấy còn nhận ra ánh sáng được thắp lên bởi Thiên Chúa khuất ẩn đàng sau bóng tối, hoặc như cục than hồng vẫn còn cháy đỏ bên dưới đống tro.

Số 115. Thực hành: - Tình yêu thì tin tưởng, để cho họ tự do, từ chối kiểm soát mọi sự, chiếm hữu, thống trị. Sự tự do này, vốn có thể tạo ra những không gian độc lập, mở ra với thế giới và đón nhận những kinh nghiệm mới, giúp các tương quan thêm phong phú và mở rộng.

- Bằng cách đó, vợ chồng sẽ san sẻ cho nhau niềm vui về tất cả những gì họ lãnh nhận và học được từ bên ngoài phạm vi gia đình.

- Đồng thời, tự do giúp người ta có được sự chân thành và minh bạch, vì khi biết rằng mình được những người khác tin tưởng và chân tình quí trọng lòng tốt thì sẽ cởi mở mà không giấu diếm điều gì. - Nếu một thành viên biết rằng những người khác luôn nghi ngờ mình, hoặc xét đoán mà không chút cảm thương và không yêu thương mình vô điều kiện, thì người đó sẽ có khuynh hướng giữ kín các bí mật của mình, che giấu các tội lỗi và yếu đuối của mình, và sống giả dối. Trái lại, một gia đình mà trong đó có sự tin tưởng vững vàng đầy yêu thương ngự trị, sẽ là nơi cho người ta luôn quay về trong tin tưởng dẫu cho bất cứ điều gì xảy ra, gia đình ấy sẽ giúp các thành viên sống căn tính đích thật của mình, và đương nhiên loại trừ sự lừa gạt, giả tạo, và dối trá.

 12. Tình yêu thương hy vọng mọi sự- παντα ελπιζει (Panta elpízei)

 Số 116. Panta elpizei: Tình yêu không thất vọng về tương lai. Tiếp nối từ ngữ trước, diễn ngữ này chỉ niềm hi vọng của người biết rằng người khác có thể thay đổi. Luôn hi vọng người khác một ngày nào đó có thể trưởng thành bất ngờ tỏa ra vẻ đẹp cũng như những tiềm năng chưa từng được biết. Điều này không có nghĩa là mọi sự sẽ thay đổi trong cuộc đời này. Từ đó biết chấp nhận rằng, dù mọi sự có thể không xảy ra như ta mong ước, Thiên Chúa vẫn hoàn toàn có thể uốn thẳng những đường cong và rút ra điều tốt lành nào đó từ sự dữ mà chúng ta phải chịu trong thế giới này. Đức cha Emmanuel: Đừng đóng kín con đường ân sủng, đừng làm nản lòng bất kỳ ai…Không có một toa thuốc chung[11].

Số 117.  Nói đến niềm hy vọng mang tính cánh chung. Hy vọng sẽ tiến tới chỗ trọn vẹn nhất là sự sông đời sau - Mỗi người, bất chấp mọi sai phạm của họ, đều được kêu gọi bước vào sự viên mãn của sự sống trên thiên đàng. Ở đấy, vì hoàn toàn được sự phục sinh của Chúa Kitô biến đổi, mọi yếu đuối, tối tăm và nhược điểm đều sẽ mất dạng. Ở đấy, hữu thể thực sự của người ta sẽ sáng lên trong mọi vẻ tốt lành và đẹp đẽ của họ. 

13. Lòng yêu thương chịu đựng mọi sự- παντα υπομενει (Panta hypoménei).

 Số 118. Panta hypomenei có nghĩa là [tình yêu] chấp nhận mọi sự trái ý với một tinh thần tích cực. Nghĩa là [tình yêu thì] đứng vững ngay giữa lòng môi trường thù nghịch. Không chỉ liên quan đến việc chịu đựng một số phiền hà, mà còn hơn thế nữa: một sự đề kháng năng động và liên tục, có khả năng vượt qua mọi thách đố. Đó là một tình yêu bất chấp tất cả, ngay cả trong những lúc hoàn cảnh lôi kéo sang hướng khác. Nó chứng tỏ một mức độ anh hùng can trường nào đó, một sức mạnh chống lại mọi trào lưu tiêu cực, một chọn lựa điều thiện không gì có thể lật đổ. Ở đây ĐTC nhắc đến những lời của Martin Luther King, khi xác nhận lại lựa chọn tình huynh đệ ngay giữa các cuộc bách hại và bị sỉ nhục tồi tệ nhất: “Người mạnh là người có thể chặt đứt dây xích oán hận, dây xích của sự dữ… Một ai đó phải có đủ ‘lòng tin’ và có ‘đạo đức’ để chặt đứt dây xích ấy và đưa vào trong chính cấu trúc của thế giới này yếu tố tình yêu mạnh mẽ đầy quyền năng”.[12]

Thực hành: -Trong đời sống gia đình, cần vun xới sức mạnh của tình yêu này, điều giúp chúng ta chiến đấu chống lại sự dữ đe dọa gia đình. -Tình yêu không để mình bị không chế bởi lòng oán hận, bởi sự coi thường người khác, bởi ước muốn gây tổn thương hoặc trả thù. - Lí tưởng Kitô giáo, đặc biệt trong gia đình, là tình yêu bất chấp mọi sự. (Câu chuyện mục vụ “đám cưới trên xe lăn” một kinh nghiệm mục vụ về tình yêu bất chấp tất cả tại giáo họ biệt lập Hòa Lâm vào khoảng 2001. Năm tôi mới thụ phong Linh mục 2001, tôi được Đức Cha sai về làm phó xứ Hòa Xuân đồng thời Đặc trách giáo họ Hòa Lâm...)


Kết luận

Trong đoạn cuối của Tông huấn ĐTC cho thấy không có gia đình nào hoàn hảo cả. Vì vậy mà ngài mời gọi các gia đình hãy bước đi cùng nhau, hãy nổ lực tiến đến điều cao cả hơn, hãy trưởng thành trong khả năng yêu thương và không ngừng tìm kiếm sự tròn đầy của tình yêu và sự hiệp thông mà Thiên Chúa đặt ra cho chúng ta.

“Không một gia đình nào rơi từ trên trời xuống được hình thành cách hoàn hảo cả; các gia đình cần liên lỉ lớn lên và trưởng thành trong khả năng yêu thương...Tất cả chúng ta đều được mời gọi để nỗ lực tiến đến một điều gì đó cao cả hơn chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta, và mọi gia đình phải cảm thấy động lực liên lỉ này. Chúng ta hãy thực hiện cuộc hành trình này như một gia đình, chúng ta hãy bước đi cùng nhau. (...) Chớ gì chúng ta không bao giờ nản lòng vì những giới hạn của chúng ta, hoặc dừng lại việc tìm kiếm một sự tròn đầy của tình yêu và sự hiệp thông mà Thiên Chúa đang đặt ra trước mắt chúng ta” (AL 325).



[1] Inhaxiô Loyola, Linh thao, Chiêm ngắm để được tình yêu (Esercizi spirituali, Contemplazione per raggiungere l’amore),230.

[2]Yonhap đưa tin, Viện Chiến lược an ninh quốc gia, một tổ chức nghiên cứu thuộc Cơ quan an ninh quốc gia Hàn Quốc, đã công bố sách trắng có tựa đề “Sai lầm của ông Kim Jong-un trong 5 năm nắm quyền”, tiết lộ chi tiết cách thức nhà lãnh đạo Triều Tiên dùng các vụ xử tử để củng cố quyền lực.

Theo tài liệu trên, Triều Tiên đã xử tử tổng cộng 340 người dưới thời lãnh đạo của ông Kim Jong-un, trong số đó có 140 quan chức cấp cao trong chính quyền, quân đội và đảng Lao động Triều Tiên. Một trong những quan chức bị xử tử là người chú dượng từng giữ vị trí quyền lực, Jang Song-thaek, vốn bị xử tử vào năm 2013 vì tội phản quốc” (Nguồn: <http://dantri.com.vn/the-gioi/trieu-tien-xu-tu-340-quan-chuc-ke-tu-khi-ong-kim-jong-un-len-nam-quyen-20161230043145028.htm>

[3] Nguồn: vụ ám sát Kim Jong Nam, BBC online 15 th02 2017 xem <http://www.bbc.com/vietnamese/live/world-38982363>

[4]Kim Jong-nam, 46 tuổi, là anh cùng cha khác mẹ với lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-un.

Ông là con ngoài giá thú của Kim Jong-il với bà Sung Hae-rim, một diễn viên gốc Nam Hàn, người đã qua đời tại Moscow. Năm 2001, ông Kim bị bắt khi tìm cách nhập cảnh Nhật Bản bằng hộ chiếu giả. Vụ này khiến ông bị thất sủng với cha. Từ đó Kim Jong-nam sống cuộc đời thầm lặng chủ yếu ở nước ngoài, nhất là Macau. Ông được cho là theo xu hướng muốn cải cách kinh tế ở Bắc Hàn và do vậy bất hòa với em trai Kim Jong-un. Trong quá khứ, ông Kim Jong-nam đã từng bị ám sát hụt. Kim Jong-nam dường như bị tấn công bằng hóa chất khi chuẩn bị lên máy bay về Macau từ sân bay Kuala Lumpur hôm 13/2 nhưng vụ việc chỉ vỡ lở hôm 14/2”. (theo BBC online  15 th02 2017).

[5] Octavio Paz, La llama doble, Barcelona, 1993, 35.

[6] ST II-II, q. 114, a. 2, ad 1.

[7] HG (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.

[8] ST II-II, q. 27, a. 1, ad 2.

[9] ST II-II, q. 27, a. 1.

[10] Bài Giáo Lý (13 tháng 5, 2015): L’Osservatore Romano, 14 tháng 5, 2015, p. 8.

[11] ĐGM Emmanuel Nguyễn Hống Sơn, thường huần linh mục giáo phận Bà Rịa, tháng 1/2017.

[12] Martin Luther King Jr., Bài giảng trong Nhà thờ Battista ở Dexter Avenue, Montgomery, Alabama, 17.11.1957.

Đọc tiếp »