BÍ TÍCH THÁNH TẨY
Lm. Gioan B. Trương
Đình Hà
MỤC LỤC TỔNG QUÁT
Dẫn nhập
1. Phụng vụ của Giáo Hội
Đời sống Phụng Vụ của Giáo Hội có hai mục đích chính là việc
tôn thờ Thiên Chúa và thánh hóa nhân loại. Phụng vụ của Giáo Hội bao gồm: việc
cử hành Thánh lễ, cử hành các bí tích, cử hành các giờ kinh phụng vụ, và cử
hành các Á bí tích. Các bí tích là kho tàng ân sủng vô giá của Thiên Chúa được
trao cho Giáo Hội quản lý. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô phân phát ân
sủng của Thiên Chúa cho người tín hữu.
"Trong Giao Ước Mới, có bảy bí tích do Ðức Ki-tô thiết lập
là Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức
Thánh và Hôn Phối. Bảy bí tích liên quan đến tất các giai đoạn và thời điểm
quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu : người tín hữu được sinh ra và lớn lên, được
chữa lành và sai đi. Giữa những giai đoạn của đời sống tự nhiên và đời sống
thiêng liêng, có nhiều điểm tương đồng". (GLHT 1210)
Bảy bí tích được chia làm ba nhóm[1]:
- Nhóm bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm sức, Thánh Thể
- Nhóm bí tích chữa lành: Hòa giải và Xức Dầu bệnh nhân
- Nhóm bí tích phục vụ sự hiệp thông và sứ vụ của các tín hữu: Truyền
chức Thánh và Hôn phối.
Trong đó ba bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm Sức và
Thánh Thể đặt nền tảng cho toàn bộ đời sống Kitô hữu:
"Nhờ ân sủng của Ðức Ki-tô, con người được tham dự vào bản
tính Thiên Chúa. Tương tự như việc sinh ra, lớn lên và bảo tồn trong đời sống tự
nhiên, người tín hữu được tái sinh trong đời sống mới nhờ bí tích Thánh Tẩy, được
củng cố nhờ bí tích Thêm Sức, và nhận lấy bánh ban sự sống đời đời trong bí
tích Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, họ được hiệp
thông sâu xa hơn vào đời sống thần linh và ngày càng tiến tới đức mến hoàn hảo"[2].
(GLHT 1212)
2. Bí tích Thánh Tẩy là gì?
Trong phần này chúng ta tìm hiểu
về Bí Tích Thánh Tẩy. Theo Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa:
"Bí Tích Thánh Tẩy là bi tích nền tảng của toàn bộ đời sống
Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí
tích Thánh Tẩy, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái
Thiên Chúa, trở thành chi thể của Ðức Ki-tô, được tháp nhập vào Hội Thánh và
tham dự sứ mạng của Hội Thánh"[3].
(GLHT 1213).
Có thể định nghĩa một cách
đúng đắn và thích hợp rằng "Bí tích thánh Tẩy là bí tích tái sinh chúng ta
nhờ nước và trong Lời Chúa" (x. Giáo lý Rô-ma 2,2,5).
Như vậy Bí Tích Thánh Tẩy
- Là nền tảng toàn bộ đời sống người Kitô hữu
- Là của ngỏ dẫn vào đời sống thần linh và các bí tích khác
- giải thoat ta khỏi tội lỗi
- Tái sinh ta làm con Thiên Chúa
- Trở thanh chi thể của Đức Kitô
- được tháp nhập vào Hội Thánh
- Tham dự vào sứ mạng của Hội Thánh
3. Danh xưng
Theo Giáo Lý Hội Thánh Công giáo số 1214 nói về tên gọi
của Bí Tích Thánh Tẩy như sau:
"Người ta gọi bí tích này theo nghi thức trung
tâm là: Rửa (theo từ hy lạp baptizein) nghĩa là "ngụp lặn", "gìm
mình dưới nước, "chìm xuống", "dìm xuống" trong nước tượng
trưng cho việc người dự tòng được mai táng trong sự chết của Chúa Kitô để rồi
được sống lại với Ngài[4] như một "thụ tạo mới" (2 Cr 5,17; Gl 6,15).
Gọi là Bí tích Thánh Tẩy hay Bí tích Rửa tội. Tiếng Anh baptism,
Tiếng Pháp gọi là baptême cùng xuất phát từ chữ baptisma hay
baptismus trong tiếng La tinh. Cả hai từ này lại có gốc từ tiếng Hy Lạp là baptisma
hay baptismos do động từ baptizo[5] (nhúng, ngâm, chìm xuống) mang tính chủ động
và nẩy sinh ra từ baptizein, mang tính thụ động.
GLHT 1215
Bí tích này còn được gọi là "sự tắm rửa để được tái
sinh và được đổi mới trong Chúa Thánh Thần"(Tt 3,5), vì nó nói lên và thực
hiện sự sinh ra bởi nước và Chúa Thánh Thần mà nếu không có thì "không một
ai có thể vào Nước Thiên Chúa" (Ga 3,5).
GLHT 1216
"Phép Rửa này còn được gọi là sự soi sáng, bởi
vì những người lãnh nhận lời giáo huấn (về giáo lý) này, được soi sáng trong
tâm hồn"( Th. Justino, Apol.1,61,12). Trong phép Rửa tội, người được rửa
tội nhận được Ngôi Lời là "ánh sáng đích thực soi sáng mọi người" (Ga
1,9), và "sau khi được soi sáng như thế"(Dt 10,32), họ trở nên
"con của sự sáng" (1 Tx 5,5) và chính bản thân họ là "ánh sáng"
(Ep 5,8):
Thánh Gregorio de Nazian nói:
"Phép Rửa tội là hồng ân đẹp nhất và tuyệt
nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa (...). chúng ta gọi bí tích này là hồng
ân, ân sủng, sự xức dầu, sự soi sáng, y phục của tính bất hủ, sự tắm gội của ơn
tái sinh, ấn tín, và tất cả những gì là quý trọng nhất. Hồng ân, vì được ban
cho những người không có công trạng gì; ân sủng, vì được ban cả cho những phạm
nhân; phép Rửa, vì tội lỗi được chôn vùi trong nước; xức dầu, vì người đó được
thánh hiến và trở nên vương giả (như những người được xức dầu); soi sáng,
vì người ấy là ánh sáng chói loà; y phục, vì phép Rửa tội che đậy sự xấu hổ của
ta; tắm rửa, vì nó rửa sạch; ấn tín, vì phép này gìn giữ chúng ta và là dấu
hiệu của uy quyền Thiên Chúa" ( Th. Gregorio Naz. Or. 40,3-4).
CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC LỊCH SỬ NGHI THỨC THANH TẨY TRONG CỰU ƯỚC
1. Ý thức về sự thiêng thánh của con người
Từ thời Cựu Ước, con người đã có ý thức về sự thiêng thánh, tuy
còn mù mờ. Ý thức đó đã đưa con người đến tâm tình tôn giáo; và một
khi đối diện trước Đấng linh thiêng, con người cảm thấy sợ hãi, tuy sợ hãi
nhưng con người vẫn bị lôi cuốn đến với sự thiêng thánh. Đặc biệt khi ý thức về Đấng
Thánh xuất hiện trong tâm trí con người, thì cũng đồng thời con người nhận ra sự
yếu đuối, thấp hèn, tội lỗi của mình.
+ Một trong những
mạc khải độc đáo trong Cựu Ước, đó là mạc khải của Thiên Chúa cho ông Môsê.
Thiên Chúa từng bước tỏ mình cho con người. Cho con người được tiếp kiến, nói
chuyện với Đấng Thánh.
" Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là
Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên
Chúa, là núi Khô-rếp. Thiên sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra với ông trong đám lửa
từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không
bị thiêu rụi. Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới
được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? " ĐỨC CHÚA thấy ông lại xem,
thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê! " Ông thưa:
"Dạ, tôi đây! " Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân
ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh." Người lại phán: "Ta là
Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác,
Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên
Chúa". (Xh 3, 1-6)
+ Các môn đệ sợ hãi trước cơn cuồng phong, lại càng hoảng sợ hơn
trước Đấng uy quyền sai khiến cả gió và biển (thiên nhiên):
" Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ:
"Chúng ta sang bờ bên kia đi! " Bỏ đám đông ở lại, các ông chở
Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người Và
một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong
khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ
đánh thức Người dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng
lo gì sao? " Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển:
"Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. Rồi Người bảo
các ông: "Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? " Các
ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển
cũng tuân lệnh? " (Mc 4, 35-41)
+ Nhận ra Đấng Linh Thiêng chính là Thiên Chúa cao cả quyền năng,
con người cũng chợt nhận ra thân phận tội
thấp hèn của chính mình:
"Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: "Chèo ra chỗ nước
sâu mà thả lưới bắt cá."5 Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi
đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."6 Họ
đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.7 Họ
làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới,
và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. 8 Thấy vậy, ông
Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa
con, vì con là kẻ tội lỗi! "9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông
Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.10 Cả hai
người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng
kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh
sẽ là người thu phục người ta." (Lc 5, 4-10)
2. Ý nghĩa việc tắm rửa, thanh tẩy
Việc tắm để thanh tẩy có lẽ xuất hiện cùng với những hiện tượng
tôn giáo thờ các thần đã có vào những kỷ nguyên trước công nguyên. Vì ý thức Đấng
linh thiêng là Thánh thì khi đến gần, con người cần thanh tẩy chính mình, là tắm
rửa để làm đẹp lòng Đấng Thánh. Trong các phương tiện thanh tẩy thì nước sông,
nước biển là phương tiện gần gũi và thông thường nhất để thanh tẩy, cho nên người
ta thường xuống các dòng sông để tắm hoặc thanh tẩy. Không những thế trong các
buổi tế thần Attis hay Mithras[6],
người ta giết bò hay dê rồi lấy máu rẩy lên các tín đồ, hoặc chính các tín đồ
bôi lên đầu lên mặt, lên mình để sức lực thần linh thấm vào da thịt mình. Trong
cựu ước dưới chân núi Sinai Môsê đã ký giao ước giữa dân với Thiên Chúa, thanh
tẩy dân bằng máu:
"Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên với ĐỨC
CHÚA, ngươi cùng với A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ
mục Ít-ra-en. Các ngươi sẽ phủ phục ở đằng xa.2 Một mình Mô-sê sẽ lại gần
ĐỨC CHÚA, còn những người khác sẽ không được lại gần. Dân cũng sẽ không được
lên với Mô-sê."3 Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi lời của ĐỨC
CHÚA và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: "Mọi lời ĐỨC CHÚA đã phán,
chúng tôi sẽ thi hành."4 Ông Mô-sê chép lại mọi lời của ĐỨC CHÚA.
Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ
đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en.5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân
Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế ĐỨC
CHÚA.6 Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia
thì rảy lên bàn thờ.7 Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ
thưa: "Tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân
theo."8 Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là
máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, dựa trên những lời này." (Xh 24,
1-8).
Như ở Thái Lan mới đây, các quan chức Thái trong một nghi lễ
truyền thống đã đi lấy nước ở 100 nguồn nước khác nhau trên 76 tỉnh của đất nước,
để
dùng cho nghi lễ rửa tội và xức dầu cho nhà vua trước nghi lễ đăng
quang. Nước thiêng được thu thập từ khắp Thái Lan để dùng vào nghi thức
rửa tội tại lễ đăng quang của Nhà vua Maha Vajiralongkorn tháng sau. Việc dùng
nước làm lễ rửa tội là một truyền thống của đạo Bà la môn, được thực hiện từ
thời hoàng gia Thái Lan thế kỷ 18[7].
3. Các nghi thức thanh tẩy
3.1. Ngày lễ xá tội trong Cựu Ước
"ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron,
anh ngươi, đừng vào bất cứ lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước
nắp xá tội ở trên Hòm Bia, và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra
trong đám mây trên nắp xá tội.
3 A-ha-ron sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ
tạ tội và một cừu đực để làm lễ toàn thiêu.4 Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải
gai, mặc trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai.
Đó là phẩm phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào.
5 Nó sẽ nhận hai con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu
đực để làm lễ toàn thiêu, do cộng đồng con cái Ít-ra-en đem tới.6 A-ha-ron
sẽ tiến dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội
cho mình và cho nhà mình.7 Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan ĐỨC
CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ.8 Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê: một thăm
"dành cho ĐỨC CHÚA", một thăm "dành cho quỷ
A-da-dên."9 A-ha-ron sẽ tiến dâng con dê trúng thăm "dành cho ĐỨC
CHÚA" và dùng làm lễ tạ tội.10 Còn con dê trúng thăm "dành cho
A-da-dên", A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước nhan ĐỨC CHÚA, để cử hành lễ
xá tội trên nó và thả nó cho A-da-dên trong sa mạc.
11 A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ dùng làm lễ tạ tội cho
chính mình, và cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình: nó sẽ sát tế con bò
tơ làm lễ tạ tội cho chính mình.12 Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước
nhan ĐỨC CHÚA bỏ đầy vào bình hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem
vào phía sau màn trướng.13 Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan ĐỨC CHÚA, và
khói hương như mây sẽ phủ nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không
phải chết.14 Nó sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội,
về phía đông; rồi đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.
15 Nó sẽ sát tế con dê dùng làm lễ tạ tội cho dân, sẽ đem
máu nó vào phía sau màn trướng, và cũng sẽ lấy máu đó mà rảy như đã rảy máu con
bò tơ: nó sẽ rảy máu đó lên nắp xá tội, và đàng trước nắp xá tội.16 Nó sẽ
cử hành lễ xá tội cho thánh điện, vì những điều ô uế của con cái Ít-ra-en và những
việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng". (Lv 16, 2- 16)
Ý nghĩa sâu xa hơn của việc thanh tẩy bằng máu là từ nay những
người nhận máu đã thuộc về Đức Chúa. Như vậy việc lấy máu từ súc vật rảy trên
dân chúng với ý tưởng thanh tẩy để được thánh hóa đã có từ lâu trong dân Do
Thái: "Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem
rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ
trở nên trong sạch" (Dt 9,13).
Việc thanh tẩy bằng nước ta thấy rõ ở Ai cập và những nước có nền
văn minh rất sớm như Babilon, Ba tư, Ấn Độ. Sông Nil ở Ai Cập, Sông Hằng Hà ở Ấn
Độ, sông Euphrat ở miền Lưỡng Hà, sông Jordan ở Do Thái. Trường hợp của Naaman
người Syria bị bệnh cùi và ông nghe nói có tiên tri Êlisê người của Thiên Chúa
nên ông và thị vệ đi tìm vị tiên tri. Đến nơi vị tiên tri bảo ông hãy xuống tắm
bảy lần dưới sông Jordan thì được sạch. Ở đây nói đến giá trị của dòng sông và
việc tẩy sạch bệnh. Do vậy việc tắm rửa giúp cho con người được thanh sạch và
việc tắm rửa trong các dòng sông có ý nghĩa thánh thiêng mãi cho đến tận ngày
nay. Việc tắm giúp con người được tẩy sạch còn việc uống nước những dòng sông
này có thể đem lại cho con người cuộc sống bất tử. Herodot[8]
nói: "Nếu như một người Aicập hay một người ngoại lai nào bị cá sấu kéo xuống
nước và cắn chết hay bị chết chìm trong dòng sông. Phải thong báo cho mọi người
biết; nhưng cư dân chung quanh bờ, nơi xác người ấy được kéo lên, phải có bổn
phận xức thuốc thơm lên xác người ấy, mặc những quần áo đẹp nhất và chôn trong
những cổ quan tài linh thánh (cách ướp xác). Không ai được phép chạm đến người ấy,
cho dù thân nhân hay bạn bè, nhưng chỉ có các tư tế của sông Nil mới được tẩm
liệm và chôn cất người ấy hơn là một người bình thường" (II 90).
Như thế một người chết đuối được
gọi là người "lặn xuống", người đó thuộc về thần Hadrian, Osiris[9]
và được tôn thần, hưởng sự thờ tự suốt đời. Như vậy ta thấy việc tắm thanh tẩy
theo nghĩa tôn giáo, ngoài mục đích tẩy sạch bụi trần, tẩy sạch những gì không
đẹp lòng thần thánh, còn có giá trị thần thánh: ai uống nước sông Nil sẽ được
bước vào liên hệ với thần thánh và được thành thần[10].
3.2. Các hình thức thanh
tẩy
+ Toàn dân Israel phải thanh tẩy
để gặp gỡ Thiên Chúa
- Đoạn Xuất hành 19, 10-14: Đoạn
này nói đến việc dân sắp gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng con người phải kính sợ và
trước mặt Thiên Chúa, con nggười phải không có một dấu vết tì ố nào. Thiên Chúa
đòi hỏi ở dân phải giữ mình tránh khỏi nhiễm uế; họ phải giặt giặt quần áo,không
gần gũi đàn bà...
"ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với dân và bảo
họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần
áo,11 và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia ĐỨC CHÚA sẽ ngự xuống
trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân.12 Ngươi sẽ định rõ cho dân một giới hạn
chung quanh núi và bảo họ: Anh em phải coi chừng không được lên núi và chạm đến
chân núi. Ai chạm đến núi thì sẽ bị giết.13 Không bàn tay nào được chạm đến
người đó; nó sẽ bị ném đá cho chết hoặc bị bắn bằng cung tên, dù là thú vật hay
là người, nó sẽ không được sống. Khi tù và rúc, dân sẽ lên
núi."14 Ông Mô-sê từ trên núi xuống với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi
nhiễm uế; họ giặt quần áo.15 Ông Mô-sê bảo dân: "Trong ba ngày, anh
em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà." .
+ Trong sách Đệ nhị luật nói đến quân sĩ khi ra trận phải tẩy uế,
giữ mình thanh sạch:
Đnl 23, 10-15: "Khi ra đóng quân đối diện với quân thù,
anh (em) phải giữ mình khỏi mọi điều xấu.11 Khi ở giữa anh (em) có một người
đàn ông không thanh sạch, vì xuất tinh ban đêm, thì người ấy phải ra ngoài trại,
và không được trở vào trong trại;12 lúc chiều tà, người ấy sẽ tắm rửa bằng
nước, và khi mặt trời lặn, sẽ trở vào trong trại. 13 Anh (em) phải có một
chỗ ở bên ngoài trại, và anh (em) sẽ ra đó mà đi ngoài.14 Trong đồ đạc của
anh (em), phải có một cái xẻng nhỏ, và khi ra ngồi ngoài đó, anh (em) sẽ dùng xẻng
đó mà đào lỗ phóng uế, rồi lấp đi.15 Vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em),
đi đi lại lại giữa trại anh (em) để giải thoát anh (em) và trao thù địch của
anh (em) cho anh (em). Vậy trại anh (em) phải là trại thánh, kẻo Người thấy có
gì chướng nơi anh (em) mà không đi theo anh (em) nữa".
3.3. Luật thanh sạch và ô uế trong Lê vi (11, 1-45)
" ĐỨC CHÚA
phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron và bảo các ông rằng: 2 "Hãy nói với
con cái Ít-ra-en: Trong tất cả các loài vật sống trên đất, đây là những loài
các ngươi được ăn: 3 Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài
nhai lại, thì các ngươi được ăn.4 Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và
các loài có móng chẻ hai, các ngươi không được ăn các con này: con lạc đà, vì
nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế;5 con
ngân thử, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là
loài ô uế;6 con thỏ rừng, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các
ngươi phải coi nó là ô uế;7 con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng
không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế.8 Thịt của chúng, các
ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các
ngươi phải coi chúng là loài ô uế.
9 Trong tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài
các ngươi được ăn:
10 Còn tất cả những loài không có vây, không có vảy, ở sông hay ở biển,
trong số mọi vật nhỏ sống dưới nước và mọi sinh vật sống dưới nước, thì các
ngươi phải coi chúng là loài kinh tởm.11 Các ngươi phải coi chúng là loài
kinh tởm: thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các
ngươi phải coi là vật kinh tởm.12 Tất cả những loài sống dưới nước mà
không có vây, không có vảy, các ngươi phải coi là loài kinh tởm. 13 Trong
các loài chim, đây là những loài các ngươi phải coi là kinh tởm: người ta không
được ăn, vì là loài kinh tởm: đại bàng, diều hâu, ó biển,14 diều hâu đen,
mọi thứ kền kền,15mọi thứ quạ,16 đà điểu, cú, mòng biển, mọi thứ bồ cắt,17 cú
vọ, cóc, cú mèo,18 chim lợn, bồ nông, ó,19 cò, mọi thứ diệc, chim đầu
rìu và dơi.
20 Mọi loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi phải
coi là loài kinh tởm.21 Trong các loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân,
các ngươi chỉ được ăn những thứ sau đây: những con ngoài chân ra có thêm càng để
nhảy trên đất.22 Trong số những loài đó, đây là những loài các ngươi được
ăn: mọi thứ cào cào, mọi thứ châu chấu, mọi thứ muỗm, mọi thứ dế.23 Nhưng
mọi vật nhỏ có cánh mà có bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.
Đụng vào loài vật ô uế
24 Vì các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết
của chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều,25 bất cứ ai mang xác chết của chúng,
thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.26 Mọi con vật không có
chân chẻ làm hai móng và không nhai lại, các ngươi phải coi là loài ô uế: bất cứ
ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế.27 Trong số các loài vật đi bằng bốn chân, tất
cả các con đi bằng bàn chân, các ngươi phải coi là loài ô uế; bất cứ ai đụng
vào chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều.28 Bất cứ ai mang xác chết của chúng,
thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi phải coi chúng là
vật ô uế.
Các vật nhỏ sống trên mặt đất.
29 Trong số các loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất, các
ngươi phải coi những loài này là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, mọi thứ thằn lằn,30 tắc
kè, kỳ đà, cắc ké, kỳ nhông, thạch sùng.
Quy định khác về việc đụng vào vật ô uế
31 Trong số mọi loài vật nhỏ, các ngươi phải coi những
loài trên là ô uế. Bất cứ ai đụng đến chúng khi chúng đã chết, thì sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
32 Trong những con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ
vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế, dù là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ
dùng để làm một công việc gì; phải nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến
chiều, rồi sẽ được thanh sạch.33 Nếu một con vật rơi vào trong bất cứ bình
sành nào, thì tất cả những gì trong đó sẽ ra ô uế, và các ngươi phải đập vỡ
bình ấy.34 Mọi thứ người ta ăn, nếu bị nước bình ấy đổ lên trên, thì sẽ ra
ô uế; mọi thứ người ta uống, đựng trong bất cứ bình nào nói trên, sẽ ra ô uế.35 Một
xác chết của chúng mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế; lò và bếp
sẽ phải phá đi: các vật ấy là ô uế và các ngươi phải coi là những vật ô uế.36 Tuy
nhiên suối và hầm nước thì khối nước vẫn thanh sạch, nhưng ai đụng đến xác chết
của chúng, sẽ ra ô uế.37 Nếu một xác chết của chúng rơi trên hạt giống để
gieo, thì hạt giống vẫn thanh sạch;38 nhưng nếu đã đổ nước vào hạt giống,
mà một xác chết của chúng rơi trên đó, thì các ngươi phải coi hạt giống đó là ô
uế.
39 Nếu một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai
đụng vào xác chết của nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều;40 ai ăn thịt xác chết
của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của
nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
41 Mọi loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất là vật kinh tởm,
không được ăn.42 Mọi con vật bò bằng bụng, mọi thứ đi bằng bốn chân hay
nhiều chân hơn, tóm lại mọi loài vật lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi không được
ăn, vì chúng là vật kinh tởm.43 Các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh
tởm vì mọi loài vật nhỏ lúc nhúc, các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì chúng:
các ngươi sẽ ra ô uế vì chúng.44 Thật vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của
các ngươi; các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh;
các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì mọi loài vật nhỏ bò trên đất.45 Thật
vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng đã đưa các ngươi từ đất Ai-cập lên, để Ta làm Thiên
Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh."
Chính sự thanh tẩy với nước này tạo cho người và vật một khả
năng bước vào chương trình của Thiên Chúa, bước vào một bậc trong phẩm trật
thánh thiện của "dân thánh".
3.4. Những quy định trong
nghi thức thanh tẩy
- Nhúng vào nước các vật ô uế : (Lv 11, 32) "Trong những
con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế, dù
là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ dùng để làm một công việc gì; phải
nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi sẽ được thanh sạch"
- Rảy nước lên ngừoi hay vật: (Lv 14, 7): " Tư tế rảy bảy
lần trên người đang được thanh tẩy khỏi phong hủi, tuyên bố nó thanh sạch, rồi
thả con chim cón sống ra ngoài đồng"
- Giặt quần áo để thanh tẩy : (Lv
11, 24-25. 28.3940):
"Vì các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết
của chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều,25 bất cứ ai mang xác chết của chúng,
thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều. Bất cứ ai mang xác chết của
chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi phải coi
chúng là vật ô uế. Nếu một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai đụng
vào xác chết của nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều;40 ai ăn thịt xác chết của
nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của nó,
sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều".
- Đôi khi phải tắm trọn thân mình: (Lv 15, 5-18):
"Người nào đụng vào giường
của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
6 Ai ngồi lên đồ vật người bị lậu đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước
mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
7 Ai đụng đến thân thể người bị lậu, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm, và
sẽ ra ô uế cho đến chiều.
8 Nếu người bị lậu nhổ vào một người thanh sạch, người này sẽ phải giặt
áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
9 Mọi cái yên người bị lậu cưỡi lên sẽ ra ô uế.
10 Bất cứ ai đụng vào một đồ vật nào mà người ấy nằm hay ngồi lên, sẽ ra ô
uế cho đến chiều.
Ai mang một đồ vật như thế, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
11 Người bị lậu chưa rửa tay mà đụng vào bất cứ người nào, thì người ấy sẽ
phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
12 Bình sành người bị lậu đụng vào, sẽ phải đập vỡ, còn mọi bình gỗ sẽ được
rửa bằng nước.
13 Khi người bị lậu được lành bệnh, nó phải tính bảy ngày mới được thanh tẩy;
nó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, và nó sẽ ra thanh sạch.14 Ngày
thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non, đến trước nhan ĐỨC
CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ, mà đưa cho tư tế.15 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ
tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, trước
nhan ĐỨC CHÚA, vì nó đã bị lậu.
16 Khi một người đàn ông xuất tinh, thì phải lấy nước tắm rửa thân thể, và
sẽ ra ô uế cho đến chiều,17 khi có xuất tinh mà giây ra bất cứ áo hay đồ
da nào, thì sẽ phải lấy nước mà giặt rửa, và những thứ ấy sẽ ra ô uế cho đến
chiều.
18 Khi một người đàn bà giao hợp với một người đàn ông, thì cả hai phải lấy
nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều".
- Đặc biệt tắm với nước tro con bò cái màu hung đỏ (Ds 19,
2-12)
" ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông
A-ha-ron:2 "Đây là quy tắc trong luật mà ĐỨC CHÚA đã truyền: Ngươi
hãy bảo con cái Ít-ra-en đưa tới cho ngươi một con bò cái màu hung đỏ, nguyên
tuyền, toàn vẹn và chưa bao giờ mang ách.3 Các ngươi sẽ trao nó cho tư tế
E-la-da. Người ta sẽ đưa nó ra ngoài trại và sát tế nó trước mặt ông.4 Tư
tế E-la-da sẽ lấy ngón tay nhúng vào máu nó mà rảy bảy lần về phía mặt tiền Lều
Hội Ngộ.5 Người ta sẽ thiêu con bò trước mắt ông; da, thịt, máu và phân nó
đều đốt hết.6 Và tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, hương thảo và chỉ màu đỏ thẫm
mà quăng vào giữa con bò đang cháy.7 Sau đó tư tế phải giặt áo, và lấy nước
rửa mình cho sạch, rồi trở về trại, tư tế sẽ bị nhiễm uế cho tới chiều.8 Người
thiêu con bò ấy cũng phải lấy nước giặt áo và rửa mình cho sạch, và cũng bị nhiễm
uế cho tới chiều.9 Một người nào thanh sạch sẽ hốt tro con bò ấy, để ở một
nơi thanh sạch, bên ngoài trại. Đối với cộng đồng con cái Ít-ra-en, thì tro đó
được dự trữ dùng làm nước tẩy uế. Đó là nghi thức tạ tội.10 Người đã hốt
tro con bò cũng phải giặt áo, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều. Đối với con
cái Ít-ra-en cũng như với ngoại kiều trú ngụ giữa chúng, thì đó là một quy tắc
vĩnh viễn.
11 Ai đụng vào người chết, bất cứ người chết này là ai, đều
bị nhiễm uế trong bảy ngày liền.12 Ngày thứ ba và thứ bảy, người đó sẽ lấy
nước nói trên mà thanh tẩy mình và sẽ được sạch; nếu người đó không thanh tẩy
mình ngày thứ ba và thứ bảy, thì sẽ không được sạch".
3.5. Giao ước và phép Cắt
Bì (St 17, 1-14)
Trong Cựu Ước, Lễ Cắt Bì là cắt bỏ cái bì phía trước ở dương vật
của người nam, là biểu hiện của sự ô uế (Gr 4,4) mà Thiên Chúa chỉ định để làm
dấu hiệu của giao ước giữa Ngài với Áp-ra-ham và dòng dõi người (St 17,10-14).
Ý nghĩa lễ Cắt Bì cơ quan sinh dục nói lên rằng, sự ô uế hiện hữu
trong con người từ thuở sinh ra và do cha mẹ truyền lại đã bị lột bỏ. Nghi thức
này là hình bóng cho sự tách biệt mình khỏi điều ô uế của bản tính xác thịt để
có thể hiệp thông với Thiên Chúa. Theo sử gia Hérodote, từ thời cổ đại người
Ai-cập, Ê-thi-ô-bi và Sy-ri hay làm lễ này, nhưng có lẽ chỉ nói đến những thầy
tế lễ Ai-cập và người học đạo .
"Giao ước và phép cắt
bì
1 Khi ông Áp-ram được chín mươi chín tuổi, ĐỨC CHÚA hiện
ra với ông và phán: "Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt
Ta và hãy sống hoàn hảo.2 Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và
Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông."3 Ông Áp-ram cúi rạp xuống.
Thiên Chúa phán với ông rằng: 4 "Phần Ta, đây là giao
ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc.5 Người ta sẽ
không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm
cha của vô số dân tộc.6 Ta sẽ cho ngươi sinh ra nhiều, thật nhiều: Ta sẽ
làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi.7 Ta
sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ
này qua thế hệ khác. Đây sẽ là giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của
ngươi và của dòng dõi ngươi sau này.8 Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi
ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Ca-na-an, làm sở hữu
vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng."
9 Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Phần ngươi, hãy
giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ
khác.10 Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với
các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải
chịu cắt bì.11 Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu
giao ước giữa Ta với các ngươi.12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các
ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh
trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào
không thuộc dòng dõi các ngươi.13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà
cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi,
sẽ thành giao ước vĩnh cửu.14 Kẻ không được cắt bì, người đàn ông con trai
không được cắt bì nơi bao quy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ: nó đã phá vỡ
giao ước của Ta."
Thời đó họ làm lễ cắt bì bằng dao
đá :
"Ông Mô-sê ra đi,
trở về với bố vợ là ông Gít-rô và nói: "Xin để con đi về với anh em con
bên Ai-cập xem họ còn sống hay không." Ông Gít-rô trả lời ông Mô-sê:
"Anh đi bình an! "
19 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê ở Ma-đi-an: "Đi đi,
hãy trở về Ai-cập, bởi vì mọi kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi."20 Ông
Mô-sê đem vợ và con cái đi theo, cho họ cỡi lừa và trở về đất Ai-cập. Ông Mô-sê
cầm cây gậy của Thiên Chúa trong tay.21 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:
"Khi ngươi ra đi để trở về Ai-cập, ngươi hãy nhìn xem: mọi điều lạ lùng Ta
đã ban cho ngươi có quyền làm, thì ngươi sẽ làm trước mặt Pha-ra-ô. Nhưng Ta,
Ta sẽ làm cho nó cứng lòng và nó sẽ không thả cho dân đi! "22 Bấy giờ,
ngươi sẽ nói với Pha-ra-ô: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Con đầu lòng của Ta là
Ít-ra-en.23 Ta đã phán với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi thờ phượng
Ta. Nhưng ngươi đã từ chối không thả nó đi, thì này chính Ta sẽ giết chết con đầu
lòng của ngươi."
Con ông Mô-sê được cắt bì
" Vậy dọc đường, tại nơi ông dừng lại nghỉ đêm, ĐỨC
CHÚA bắt gặp ông và tìm cách giết ông.25 Bấy giờ, bà Xíp-pô-ra lấy mảnh đá
sắc cắt bì cho con, đụng vào chân ông, rồi nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa
vợ chồng với tôi."26 Và ĐỨC CHÚA tha cho ông. Bà nói: "Nhờ máu,
ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi" là vì phép cắt bì".
(Xh 4,25; Ge 5,2).
Trong vùng các dân tộc tại xứ Sy-ri, chỉ người Do-thái giữ lễ nầy để tách biệt
riêng khỏi các dân Ca-na-an xung quanh mình. Việc Cắt Bì có thể đã có trước đời
Áp-ra-ham, nhưng theo sách Sáng Thế, ta thấy đó là lần đầu tiên của tổ phụ
Abraham chịu Cắt Bì, khi Thiên Chúa lập làm dấu hiệu của giao ước Ngài với Abraham.
Từ đó mới có phép Cắt Bì của dân Do Thái.
Cho nên, dầu Abraham đã 99 tuổi
cũng chịu lễ cắt bì, và các người giúp việc nam trong nhà Áp-ra-ham và
Ích-ma-ên cũng đều chịu cắt bì.
"23 Ông Áp-ra-ham dẫn Ít-ma-ên con ông, mọi nô lệ
sinh trong nhà ông và nô lệ mua bằng bạc, mọi đàn ông con trai trong số người
nhà của ông, đem đi cắt bì nơi bao quy đầu của họ trong chính ngày ấy, như
Thiên Chúa đã phán với ông.24 Ông Áp-ra-ham được chín mươi chín tuổi khi
chịu cắt bì nơi bao quy đầu.25 Ít-ma-ên, con ông, được mười ba tuổi khi chịu
cắt bì nơi bao quy đầu.26 Trong chính ngày ấy, ông Áp-ra-ham và Ít-ma-ên,
con ông, chịu cắt bì;27 mọi người nhà của ông, những nô lệ sinh trong nhà
hoặc nô lệ ông dùng bạc mà mua của người ngoại bang, đều chịu cắt bì với
ông.(St 17, 23-27)
Chúa cũng phán bảo Môsê lúc sắp sửa ra khỏi Ai cập: những khách
ngoại bang muốn giữ lễ Vượt qua phải chịu lễ cắt bì trước (Xh 12,48). Những thầy
tế lễ Ai cập có lẽ bắt chước điều này lúc Giuse cầm quyền trên cả xứ Ai-cập và
cưới con gái của thầy cả thành Ôn. Bởi lệ nầy, những người Israel được coi là
tinh sạch, và nên một dân tư tế (Xh 19,6). Trong Gr 9,25, dường như có sự
phân biệt hai hạng: Israel chịu cắt bì bên ngoài, song không chịu cắt bì trong
lòng, và các dân ngoại không chịu cắt bì cả bên ngoài và trong lòng. Dân Israel
nếu sanh con trai, khi được 8 ngày thì phải làm lễ cắt bì cho, rồi mới đặt tên,
như họ đã làm khi làm lễ dâng con cho Chúa sau khi từ Ba-by-lon về (Lv 12,3;
so Lc 1,59; 2,21). Con trẻ nào không chịu cắt bì có thể bị "truất
ra khỏi" (St 17,14). Bà vợ của Môsê là Sê-phô-ra không bằng lòng, không cắt
bì cho con mình thì Đức Chúa thình lình phạt lúc đi đường; Sê-phô-ra vội vàng
làm để cứu chồng (Xh 4, 24-26).
Tại xứ Ai-cập, dân Israel vẫn giữ
lễ nầy, song sau khi ra khỏi đó, những người Israel sanh ở đồng vắng đều không
chịu cắt bì, vì họ đang bị hình phạt về tội vô tín, nên dường như đứng ngoài
giao ước Ngài và không cần dấu hiệu đó (Gs5, 5-6). Nhưng đến Ghinh-gan, sắp vào
xứ Ca-na-an, Giô-suê vâng theo Chúa làm lễ đó (Gs 5,2-9). Đến nay, người đạo
Do-thái vẫn còn làm lễ nầy. Người A-rập tức dòng dõi Ích-ma-ên, khi lên 13 tuổi,
theo gương tổ phụ mình, và người đạo Hồi giáo cũng giữ nữa[11].
2. Luật cắt bì rất khắc khe chi
phối đời sống hôn nhân của người Do Thái thời các Tổ Phụ. Đọc bản văn: (St 34,13-25)
"13 Khi trả lời cho Si-khem và ông Kha-mo, cha cậu,
các con trai ông Gia-cóp đã dùng mưu mà nói, vì cậu đã xâm phạm tiết hạnh của
Đi-na, em gái họ.14 Họ nói với những người kia: "Chúng tôi không thể
làm điều này là gả em gái chúng tôi cho một người không được cắt bì, vì đối với
chúng tôi, đó là một điều sỉ nhục.15 Chúng tôi chỉ đồng ý với điều kiện là
các ông trở nên như chúng tôi, nghĩa là cắt bì mọi đàn ông con trai.16 Bấy
giờ chúng tôi sẽ gả các con gái của chúng tôi cho các ông và sẽ cưới các con
gái của các ông về, chúng tôi sẽ ở với các ông và chúng ta sẽ thành một dân duy
nhất.17 Còn nếu các ông không nghe chúng tôi mà chịu cắt bì, thì chúng tôi
sẽ bắt con gái chúng tôi về, và chúng tôi sẽ ra đi."18Lời lẽ của họ vừa
lòng ông Kha-mo và Si-khem, con ông Kha-mo.19 Chàng trai làm ngay điều đó,
không chậm trễ, vì cậu mê con gái ông Gia-cóp; cậu lại là người có uy tín nhất
trong gia đình.
20 Ông Kha-mo và ông Si-khem, con ông, ra cửa thành nói với
dân rằng:21 "Những người ấy hiền hoà với chúng ta. Cứ để họ ở trong xứ,
đi lại buôn bán ở đây; xứ này có đủ chỗ cho họ. Chúng ta sẽ cưới các con gái của
họ về, và sẽ gả các con gái của chúng ta cho họ.22 Nhưng những người ấy chỉ
đồng ý ở với chúng ta để thành một dân duy nhất, với điều kiện là mọi đàn ông
con trai của chúng ta phải chịu cắt bì như họ.23 Các đàn vật của họ, tài sản
của họ, gia súc của họ sẽ chẳng thuộc về chúng ta sao? Chúng ta chỉ cần đồng ý
với họ là họ sẽ ở với chúng ta."24 Tất cả những người ra họp ở cửa
thành ông Kha-mo đều nghe lời ông và Si-khem, con trai ông; mọi đàn ông con
trai, mọi người ra họp ở cửa thành đều chịu cắt bì. 25 Sang ngày thứ ba,
khi họ còn đang đau…".
4. Thanh tẩy cho người Prosélyte trong Do Thái giáo
Người Prosélyte là người "đạo theo" (cv2,11); người
Do Thái gọi người Prosélyte là người không phải gốc Do Thái, nhưng theo đạo Do
Thái. Từ thời dân Do Thái rời bỏ Ai cập về Đất hứa đã có những người có cảm
tình với ngươi Do Thái cũng bỏ Ai Cập đi theo những người Do Thái về Đất Hứa. Đối
với người Do Thái, nghi thức này rất quan trọng. Họ cử hành nhiều nghi thức để
biến một người ngoại giáo, nhiễm đầy sự ô uế, được vào dân tuyển chọn của Thiên
Chúa, tức là một dân Thánh; biến họ trở thành người thanh sạch và trở thành con
của lời hứa. Người Do Thái xem nghi thức này như một cuộc tái sinh. Nghi thức
thanh tẩy người tân tòng trong Do Thái giáo phổ biến vào thế kỷ thứ 2 scn.
+ Nghi thức Cắt Bì được tiếp nối bằng nghi thức thanh tẩy, dần
dần trở thành nghi thức tắm rửa toàn thân. Rồi người được thanh tẩy nghe giảng
huấn về giới luật và cuối cùng dâng lễ vật.
Sách Yebamot ghi: "chúng
ta cắt bì cho anh ta; khi đã lành lặn, chúng ta Thanh Tẩy anh ta, trong khi hai
thầy Rabbi giang dạy cho anh những giới luật. Tiếp đó anh ta có giá trị như một
người Do Thái. Đối với một phụ nữ, hai Rabbi dạy dỗ chị ta phai đứng bên ngoài
việc tắm rửa của chị…".
+ Nhận định:
- Chúng ta thấy mối liên hệ giữa Nước và Sự Ô uế, dù chỉ là
bên ngoài
- Liên hệ giữa nước và sự linh thánh. Nước có thể đưa con
người vào lãnh vực thánh, lãnh vực của sự thanh sạch.
- Liên hệ giữa Nước và Hy Tế. Qua
nhiều lần thanh tẩy bằng nước, thầy tư tế và thầy Lê vi mới được tham dự vào
các buổi hiến tế.
Ý nghĩa về những nghi thức
thanh tẩy bằng nước
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước
diễn tả một sự sám hối và đem lại một lời hứa tha thứ
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước
liên kết với một giáo lý và một lời hứa đưa chúng ta vào ý định của Chúa.
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước
liên kết với một thừa tác viên thực hiện việc này trong Danh Thiên Chúa .
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước
đem lại một thần trí mới, đặc thù cho thời đại cánh chung.
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước tập
họp số sót của những người được cứu; nó mang tính cộng đoàn và phải thực hành
trước những chứng nhân.
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước
chuẩn bị cho ta thi hành những nghi thức thuộc chức tư tế.
5. Những hình ảnh tiên trưng về Bí Tích
Thánh Tẩy
- Nước từ lúc khởi nguyên, "Thần khí Chúa bay lượn trên mặt
nước" (St 1,2), từ nước này phát sinh ra vũ trụ. Các giáo phụ Tertullien
(De baptismo III,t.1) và Cyrillo thành Giêrusalem (CAth, III,5) đều xem nước
trong sáng thế là hình ảnh của bí tích Thánh Tẩy, được tràn đầy Thánh Thần để
sinh những người Kitô hữu vào đời sống mới.
- Nước của lụt đại hồng thủy: (1Pr 3, 20-21), Hội Thánh nhìn
tàu Nôe là hình ảnh tiên báo ơn cứu độ
nhờ bí tích Rửa Tội: "Trong con tàu ấy, một số ít cả thảy là 8 người, được
cứu thoát nhờ nước".
- Áng mây dẫn đường cho dân Do Thái trong sa mạc: (1Cr 10,2)
đám mây soi sáng dân Do Thái ban đêm và bảo đảm có ánh sáng ban ngày; đó là
hình ảnh của bí tích Thánh Tẩy soi sáng tâm hồn kẻ tin và làm dịu đi những ngọn
lửa của vật dục thiêu đốt họ.
- Hình ảnh Chúa giải thoát dân Do Thái khỏi Ai cập, Vượt qua Biển
Đỏ, cũng như dân Do Thái vượt qua sông Giordan để vào miền đất hứa (1Cr 10, 2)
. Có hai sự kiện: sự giải phóng dân Do Thái và việc nhấn chìm người Aicập. Biểu trưng cho nước Rửa Tội là giải
thoát người Kitô hữu khỏi tội lỗi và tiêu diệt kẻ thù của họ là ma-quỷ (1 Cr,
10, 2) và vượt sông Giordan để vào miền Đất Hứa là hình ảnh dân Mới sẽ đi vào đời
sống Vĩnh cửu nhờ bí tích Rửa tội.
- Nước vọt ra từ tảng đá do Môsê đập gậy vào: hình ảnh Chúa
Kitô cứu các Kitô hữu nhờ nước rửa tội. (1Cr 10,4)
GLHT số 1217, 1218, 1219,1220, 1221 nói đến những tiên trưng của
bí tích Rửa Tội trong Cựu Ước, những hình ảnh tiên trưng này được nêu rõ trong
lời nguyện làm phép nước rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh.
"Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong đêm cực thánh
này, chúng con là dân Chúa, đang họp nhau canh thức cầu nguyện, để tưởng nhớ
công ơn Chúa đã sáng tạo chúng con cách lạ lùng, và cứu chuộc còn lạ lùng hơn nữa.
Xin Chúa thương nhận lời chúng con và thánh hoá nước này do chính Chúa đã dựng
nên, để làm cho ruộng đất phì nhiêu màu mỡ, cho thân xác con người được sạch sẽ
và thoải mái. Và trải qua lịch sử cứu độ, nước thiên nhiên đã trở nên khí cụ của
tình thương hải hà; Quả vậy, Chúa dùng nước Biển Ðỏ cứu dân riêng khỏi vòng nô
lệ, và làm vọt lên giữa sa mạc khô cằn một nguồn nước cho dân giải khát. Các
ngôn sứ cũng dùng hình ảnh nước mạch tuôn trào để tiên báo Chúa sẽ lập giao ước
mới với loài người chúng con, và sau hết, khi Ðức Kitô chịu phép rửa tại sông
Gio-đan, Chúa đã thánh hoá nước trong lành, để thanh tẩy con người tội lỗi
chúng con và cho chúng con được tái sinh nên con người mới. Vậy giờ đây, khi
chúng con rảy nước thánh trên mình, để nhớ lại bí tích thánh tẩy chúng con đã
lãnh nhận"[12].
- Việc cắt bì nơi Do Thái giáo hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Tẩy (Rm 2, 25-29)
Trong thời Cựu Ước, Cắt bì là dấu
chứng cho giao ước Thiên Chúa ký kết với dân của Người. Đây là hành động giúp
cho một người bước vào dân tộc của Thiên Chúa, cũng như nhờ bí tích Rửa tội,
con người bước vào sự hiệp thông với Chúa Kitô và gia nhập cộng đoàn Hội Thánh.
Thánh Phaolô là người chống lại việc cắt bì thể xác. Đối với thánh nhân, người
Kitô hữu cắt bì trong tinh thần, có nghĩa là cùng thông phần sự chết với Đức
Kitô, để cùng Người phục sinh trong đời sống mới (x. Rm 4,11)[13].
Bí tích Rửa tội của Kitô giáo là dấu chỉ và là nhân tố của ân sủng, còn phép cắt
bì chỉ là ở bên ngoài thể xác, nên chi cắt bì cần phải có lòng tin nữa. Như
Abraham được kể là người công chính do bởi đức tin. Chúng ta cùng nghe lời
Thánh Phaolô qua đoạn thư Rôma sau:
"25 Còn phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi
hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt
bì.26 Trái lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy,
thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì
sao?27 Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người
ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà
vẫn vi phạm Lề Luật.28 Thật vậy, người Do-thái chính hiệu không phải là
căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ
vào cái thấy được bên ngoài, nơi thân xác.29 Nhưng người Do-thái chính hiệu
là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm
hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người
như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi."
- Nước thanh sạch chính là Thần Khí đổi mới tâm hồn:
Đọc (Edêkiel: 36, 25-28):
" Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được
thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng
các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi
quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng
thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho
các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. Các
ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân
của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".
CHƯƠNG II
THÁNH TẨY TRONG TÂN ƯỚC
1. Phép Rửa của Chúa Giêsu
GLHT 1223
Tất cả những hình bóng báo trước của Giao Ước Cũ đã được
hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài khởi sự cuộc đời công khai của Ngài, sau khi
đã để cho thánh Gioan Tẩy giả làm phép Rửa cho Ngài trong sông Giođanô ( xem Mt
3,13>, rồi sau khi sống lại, Ngài đã trao sứ mạng cho các tông đồ: "Vậy
anh em hãy đi, làm cho các dân tộc trở thành môn đệ Thày bằng cách rửa tội cho
họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Thầy
đã truyền cho anh em" (Mt 28,19-20)( xem Mc 16,15-16).
GLHT 1224
Chúa chúng ta đã tự nguyện chịu phép Rửa của thánh
Gioan, một phép Rửa dành cho các tội nhân, vì Ngài muốn "chu toàn mọi sự
công chính" (Mt 3,15). Cử chỉ này của Chúa Giêsu là một cách tỏ bày
"sự hư vô hoá bản thân mình" (Pl 2,7). Thánh Thần bay là là trên dòng
nước vào lúc sáng tạo lần thứ nhất, nay lại đáp xuống trên Chúa Kitô, mở đầu
cho sự sáng tạo mới, và Chúa Cha tỏ cho thấy Chúa Giêsu là "Con rất yêu
dấu " của Ngài (Mt 3,16-17).
GLHT 1225
Nhưng chính trong sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Kitô mới
mở ra cho mọi người những nguồn mạch của phép Rửa tội. Đúng thế, trước đó Ngài
đã nói về "phép Rửa" mà Ngài sẽ phải được rửa, khi Ngài sắp chịu đau
khổ ở Giêrusalem (Mc 10,38)( xem Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn
Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá (Ga 19,34) là những điển hình của phép
Rửa tội và phép Thánh Thể, những bí tích của cuộc sống mới( xem 1 Ga 5,6-8>:
Từ nay, người ta có thể "sinh ra bởi nước và Thánh Thần " để bước vào
Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).
"Bạn hãy xem mình được rửa tội ở
đâu, phép Rửa tội bởi đâu mà có: đó chính là bởi Thập giá Chúa Kitô, bởi sự
chết của Chúa Kitô. Tất cả Mầu nhiệm là ở đó: Ngài đã chịu đau khổ vì bạn.
Chính trong Ngài bạn đã được cứu chuộc, chính trong Ngài bạn đã được cứu
thoát"( Th. Ambrosio, sacr. 2,6).
3. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy theo luật Môsê
Chúa Giêsu xuất thân từ Do Thái
giáo, nên Người biết và thực hành các nghi thức Do Thái như một tín hữu trung
thành ngay từ thuở bé cùng với Đức Mẹ và
Thánh Giuse. Theo Kinh Thánh, sau tám ngày như luật dạy mọi con trẻ phải được
dâng cho Thiên Chúa và chịu phép cắt bì.
"21 Khi Hài Nhi được
đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi
là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai
trong lòng mẹ". (Lc 2, 21)
- Và được thanh tẩy theo nghi thức Do Thái, tiến dâng cho
Thiên Chúa và dâng lễ vật theo luật Môsê:
"22 Khi đã đến ngày
lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên
Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng:
"Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho
Chúa",24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi
chim gáy hay một cặp bồ câu non" (Lc, 2, 22-24).
4. Chúa Giêsu chịu phép Rửa bởi Gioan Tẩy Giả
4.1. Gioan rao giảng phép Rửa Sám Hối (Mt 3, 1-10)
"Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy
Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng:2 "Anh em hãy sám
hối, vì Nước Trời đã đến gần."3 Ông chính là người đã được ngôn sứ
I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức
Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4 Ông Gio-an mặc áo lông
lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức
ăn.5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp
vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông.6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa
cho họ trong sông Gio-đan.7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái
Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ
cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?8 Các
anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.9 Đừng tưởng có thể bảo mình
rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay,
Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông
Áp-ra-ham.10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt
đều bị chặt đi và quăng vào lửa".
- Gioan đã kêu gọi được mọi thành phần dân chúng lúc ấy đến
với ông để chịu phép Rửa ở sông Giordan.
- Gioan thu phục nhiều môn đệ, cả những môn đệ đầu tiên của
Chúa Giêsu lúc đầu cũng là những môn đệ của Gioan.
- Mọi người đều coi Gioan Tẩy Giả là Đấng Mêsia, hay một
Ngôn sứ (Mt 21, 25-26) "Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có? Do
Trời hay do người ta? " Họ mới nghĩ thầm: "Nếu mình nói: "Do Trời",
thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?
"26 Còn nếu mình nói: "Do người ta", thì mình sợ dân chúng,
vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ". và trong Luca 3,15:
"Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết
đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a!"
- Thánh Phaolô đã gặp các môn đồ của Gioan: (Cv 19, 1-5):
"Trong khi ông A-pô-lô ở Cô-rin-tô thì ông Phao-lô đi qua miền thượng du đến
Ê-phê-xô. Ông Phao-lô gặp một số môn đệ2 và hỏi họ: "Khi tin theo,
anh em đã nhận được Thánh Thần chưa? " Họ trả lời: "Ngay cả việc có
Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói."3 Ông hỏi: "Vậy
anh em đã được chịu phép rửa nào? " Họ đáp: "Phép rửa của ông
Gio-an."4 Ông Phao-lô nói: "Ông Gio-an đã làm một phép rửa tỏ
lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức
Giê-su."5 Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su".
4.2. Chúa Giêsu chịu phép Rửa do chính Gioan thực hiện
Mở đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu đã đến sông Giorđan và
bứơc xuống dòng nước để Gioan làm phép Rửa. Việc này cả bốn Phúc Âm đều nói đến[14].
Hành động của Chúa Giêsu là Ngài hạ mình xuống làm theo luật dạy để giữ trọn đức
công chính. Có thể nói đây là mầu nhiệm mà cả Gioan và Chúa Giêsu đều tuân phục:
"13 Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông
Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình.14 Nhưng ông một mực can Người và
nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với
tôi! "15 Nhưng Đức Giê-su trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng
ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gio-an mới chiều
theo ý Người".
Chúa Giêsu cũng xác nhận đường lối
và cách thức rao giảng của ông để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo trước. "Và
đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số
tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: "Ông là ai? "20 Ông tuyên bố
thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng
Ki-tô."21 Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông
Ê-li-a không? " Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị
ngôn sứ chăng? " Ông đáp: "Không."22 Họ liền nói với ông:
"Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến?
Ông nói gì về chính ông? "23 Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong
hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói”
(Ga1, 19-23). Gioan Tẩy Giả chính là tiếng hô trong hoang địa: “Hãy dọn
sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi".
4.3. Phép Rửa của các môn đệ Chúa Giêsu
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa
của Gioan, Người đến miền Giuđêa với các môn đệ và làm phép Rửa. Có thể nói đây
là khởi đầu của phép Rửa mới trong Thánh Thần mà Gioan đã giới thiệu mà sẽ được
hoàn tất và viên mãn trong máu Chúa Giêsu trên thập giá.
"Sau đó, Đức Giê-su và
các môn đệ đi tới miền Giu-đê. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa.23 Còn
ông Gio-an, ông cũng đang làm phép rửa tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đấy có nhiều
nước, và người ta thường đến chịu phép rửa.24 Lúc ấy, ông Gio-an chưa bị tống
giam.
25 Bấy giờ, có một cuộc
tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gio-an và một người Do-thái về việc
thanh tẩy.26 Họ đến gặp ông Gio-an và nói: "Thưa thầy, người trước
đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy
cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông."27 Ông Gio-an trả
lời: "Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.28 Chính anh
em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: "Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô,
mà là kẻ được sai đi trước mặt Người.29 Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể.
Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe
tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn.
(Ga 3, 22-29)
Nhận định về phép rửa của Gioan:
- Phép Rửa của Gioan là phép Rửa sám hối: "Ông liền đi khắp
vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
để được ơn tha tội" (Lc 3,3). Gioan rao giảng sự sám hối và làm phép rửa,
nhưng không có hiệu năng tha tội.
- Phép Rửa của Gioan là để chuẩn bị, dọn đường cho Đấng Cứu Thế
đến. Sứ vụ của Gioan là Tiền Hô, đi trước loan báo Đức Mêsia sẽ đến viếng thăm
và cứu chuộc dân Người.
- Chúa Giêsu chịu phép Rửa của Gioan là để làm trọn lời Kinh
Thánh, Đấng vô tội đã hạ mình xuống đồng hóa với tội nhân.
- Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa như Gioan đã giới thiệu,
Đấng xóa tội trần gian. Chính Ngài khi xuống sông Gior-đan đã thánh hóa dòng nước
để từ đây phép Rửa do Chính Chúa Giêsu thiết lập sẽ thanh tẩy mọi vết nhơ tội lỗi
của mọi tín hữu trong Chúa Thánh Thần: " Ông Gio-an trả lời mọi người rằng:
"Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn
tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho
anh em trong Thánh Thần và lửa" (Lc 3,16)
Như trên ta phân biệt phép rửa của Gioan là phép rửa sám hối bằng
nước để chuản bị đón nhận ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến và sẽ hoàn thất
trong ngày cánh chung; và Phép Rửa của Chúa Giêsu là phép Rửa trong Thánh Thần.
Qua đó Tân Ước khẳng định, Gioan làm phép rửa để chuẩn bị thời cánh chung. Chúa
Giêsu khai mạc thời cánh chung bằng cách ban Thánh Thần để tha tội cho mọi người
để mọi người nhận được ơn cứu độ. Tân Ước đã cho ta một khẳng định rõ ràng Bí
tích Thánh Tẩy của Kitô giáo là "Phép Rửa trong Thánh Thần do chính Chúa
Giêsu ban".
5. Phép Rửa Tội của Hội Thánh Công giáo
- Từ ngày lễ Ngũ Tuần Hội Thánh
đã cử hành và ban Bí tích Rửa tội.
- Bí tích Rửa tội luôn gắn liền với
đức tin
- Bí tích Rửa tội được ban cho
ai: những người Do Thái tin vào Chúa Giêsu, những người biết kính sợ Thiên
Chúa, những người ngoại giáo.
- Để được nhận bí tích Rửa tội cần có lòng sám hối, hoán cải
con người.
GLHT 1226:
" Ngay từ ngày Lễ Ngũ tuần, Giáo Hội đã cử hành và ban
phép Rửa tội. Đúng thế, thánh Phêrô đã tuyên bố với đám đông tâm trí rối bời
sau khi nghe ông giảng: "Anh em hãy hối cải và mỗi người hãy chịu phép Rửa
nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được tha thứ các tội lỗi của mình. Và anh em sẽ nhận
được hồng ân Chúa Thánh Thần" (Cv 2,38). Các Tông đồ và những cộng tác
viên của các ông đã ban phép Rửa tội cho tất cả những ai tin kính Chúa Giêsu:
những người Do Thái, những người kính sợ Thiên Chúa, những người ngọại giáo(
xem Cv 2,41; 8,12-13; 10,48; 16,15) Luôn luôn phép Rửa tội được coi là gắn liền
với niềm tin. Thánh Phaolô nói với viên cai ngục của ngài tại thành Philipphê rằng:
"Anh hãy tin kính Chúa Giêsu thì anh sẽ được cứu vớt, anh và cả nhà
anh". Và câu truyện được kể tiếp: "Lập tức viên cai ngục nhận lãnh
phép Rửa tội cùng với các người trong gia đình anh" (Cv 16,31-33).
- Nhờ bí tích Rửa tội, tín hữu được
hiệp thông vào sự chết của Đức Kitô, được mai táng và cùng được sống lại với
Người.
- Khi chịu phép Rửa tội trong Hội
Thánh, người tín hữu "mặc lấy Đức Kitô" :"Thật vậy, nhờ đức
tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.27 Quả
thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức
Ki-tô" (Gl 3, 27)
- Nhờ Chúa Thánh Thần, bí tích Rửa
Tội là Phép Rửa để thanh tẩy, thánh hóa, và công chính hóa.
GLHT 1227
"Theo thánh tông đồ Phaolô, người tín hữu nhờ phép Rửa tội
mà hiệp thông với cái chết của Chúa Kitô, được mai táng và được sống lại với
Ngài:
"Được rửa tội trong Chúa Giêsu Kitô, chính là chúng
ta đã được rửa trong sự chết của Ngài. Vậy chúng ta đã được mai táng với Ngài
trong sự chết, nhờ phép Rửa tội, để rồi, cũng như Chúa Kitô đã sống lại từ cõi
chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống trong một cuộc sống mới"
(Rm 6,3-4)( xem Cl 2,12).
Những người lãnh nhận phép Rửa
tội thì "mặc lấy Chúa Kitô" (Gl 3,27). Do Chúa Thánh Thần, phép Rửa tội
là một sự tắm Rửa có sức thanh tẩy, thánh hoá và công chính hoá" ( xem 1
Cr 6,11; 12,13[15]).
- Bí tích Rửa tội là phép rửa trong nước mà nhờ
đó Lời Thiên Chúa được sinh hoa kết trái.
GLHT 1228
Như vậy phép Rửa tội là một sự
tắm trong nước, nhờ đó "hạt giống bất diệt" của Lời Thiên Chúa sinh
hiệu quả mang sức sống của nó ( xem 1 Pr 1,23; Ep 5,26) Thánh Augustinô sẽ nói
về phép Rửa tội rằng: "Lời nói hợp với yếu tố vật chất và thế là trở thành
một bí tích"( Th. Augustinô, Ev.Jo. 80,3)
CHƯƠNG III: CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH TẨY
1. Sách Didache[16] : Giáo Huấn của Mười Hai Tông Đồ
Chương Bảy
1. Về Phép Rửa tội, hãy rửa như sau:
Sau khi đã dạy bảo chuẩn bị, "hãy rửa tội nhân Danh Cha,
và Con, và Thánh Thần, trong dòng nước chảy.
2. Nhưng nếu không có dòng nước chảy, có thể rửa cách khác, và
nếu không thể dùng nước lạnh, có thể dùng nước ấm.
3. Nếu cách trước không được, hãy dùng cách sau bằng cách đổ nước
ba lần trên đầu "Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần".
4. Nhưng trước khi rửa tội, người rửa tội và người được rửa tội
hãy giữ chay, và những người khác cũng giữ chay, nếu có thể được. Anh chị em
cũng bảo người được rửa tội giữ chay một hay hai ngày[17].
2. Các tài liệu của Giáo Hội về Bí Tích Thánh Tẩy
- Hiến Chế De Sacra Liturgia " Sacrosantum
Concilium", ngày 4.12.1963. Trong chương III có những điều khoản liên
quan đến Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức: từ số 64-71.
- Ordo Baptismi Parvulorum (1969) - Nghi thức Rửa Tội cho các
trẻ nhỏ
- Ordo Initiationis Christianae Adultorum (1972) - Nghi Thức
Gia Nhập Kitô Giáo Của Người Lớn.
- Nghi Thức Bí Tích Thêm Sức (1972)
- Giáo Luật 1983 - Các điều khoản từ 849 - 878 nói về Bí Tích Rửa
Tội.
- Giáo lý Hội Thánh Công giáo (1992) - Bí Tích Thánh Tẩy từ số
1213 - 1284.
3. Khai tâm Kitô giáo
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai tức thời các Tông Đồ, những ai muốn
gia nhập đạo đều phải trải qua thời gian khai tâm Kitô giáo gồm nhiều giai đoạn.
Hành trình có thể nhanh hay chậm nhưng phải luôn hội đủ những điều cốt yếu sau[18]:
- Loan báo Lời Chúa
- Đón nhận Tin Mừng
- Hối cải
- Tuyên xưng đức tin
- Nhận phép Rửa tội
- Ban Thánh Thần
- Lãnh nhận Thánh Thể
4. Phụng vụ Thánh Tẩy trong đêm Vọng Phục Sinh
Trong phần phụng vụ Thánh Tẩy của đêm Vọng Phục Sinh rất quan
trọng để chung ta tìm hiểu trong thần học về Bí tích Thánh Tẩy thời hiện tại.
Phụng Vụ đặc biệt trong
đêm Vọng Phục Sinh gồm có bốn phần: 1. Làm phép lửa mới,2. Phụng vụ Lời Chúa,3.
Phụng vụ Thánh Tẩy, 4. Phụng vụ Thánh Thể.
4.1. Làm phép lửa mới - Thắp nến Phục sinh - Công bố Tin Mừng Phục Sinh
4.2. Phụng vụ Lời Chúa gồm:
- 9 bài đọc lần lượt
đi qua chặng đường cứu độ từ sáng tạo đến
nước rửa tội
1. Về Sáng tạo (St 1,1,22)
2. Về Abraham hiến tế Isaac (St 22, 1-18)
3. Vượt qua Biển Đỏ (Xh 14, 15-15,1)
4. Về thành Giêrusalem mới (Isaia 54, 5-14)
5 Về ơn cưú độ được ban nhưng không cho mọi người (Isaia 55,
1-11)
6. Về ơn khôn ngoan đích thực (Br 3,9-15.31-4,4)
7. Về tinh thần mới, trái tim mới (Ed 36, 16-17a. 18-28)
8. Về Bí tích Thánh Tẩy (Rm 6,3-11)
9. Phúc Âm về Chúa Phục Sinh (Mt 28, 1-10; Mc 16, 1-8; Lc
24, 1-12)
4.3. Phụng vụ Thánh tẩy
Sau bài giảng là phụng vụ Thánh Tẩy, bắt đầu bằng kinh cầu các
thánh (nếu có người dự tòng), rồi đến làm phép nước. Lời nguyện làm phép nước
cô đọng tất cả những gì Hội thánh suy tư về phép Thánh Tẩy. Lời nguyện này gần
như tóm lược lịch sử cứu độ từ Cựu Ước đến Tân Ước, từ khởi nguyên khí thần bay
là trên mặt nước đến phép rửa của Gioan, từ biến cố dân Do Thái vướt Biển Đỏ
ráo chân đến cái chết cứu độ của Con Chúa, từ cạnh sườn bị đâm thâu máu cùng nước
chảy ra, phát sinh các bí tích, đến sự phục sinh của Con Chúa và sau cùng là mệnh
lệnh trước khi Chúa lên trời: Rửa tội cho muôn dân để đón nhận ơn cứu độ. Vì
vây lời nguyện này rất quan trọng để ta tìm hiểu , xin được ghi nguyên văn lời
nguyện làm phép nước trong sách lễ Rôma:
"Lạy Chúa, Chúa dùng quyền năng vô hình mà làm cho các bí
tích trở nên hữu hiệu lạ lùng. Và qua dòng lịch sử cứu độ, Chúa đã bao lần dùng
nước do chính Chúa tạo thành để bày tỏ hiệu năng của phép thánh tẩy. Quả vậy,
ngay từ lúc vũ trụ khởi nguyên, Thánh Thần Chúa đã bay là trên mặt nước, để từ
đó nước hàm chứa năng lực thánh hoá muôn loài. Chúa lại dùng nước hồng thủy làm
hình ảnh tiên báo phép rửa ban ơn tái sinh, vì thời đó cũng như bây giờ, nước
biểu thị quyền năng Chúa vừa tiêu diệt tội lỗi lại vừa khai mở một đời sống mới.
Chúa đã giải thoát con cháu ông Áp-ra-ham khỏi vòng nô lệ mà dẫn qua Biển Ðỏ
ráo chân, để họ tượng trưng cho một dân tộc mới, là những người được thánh tẩy
sau này. Và sau hết, khi đến thời đến buổi, chính Con Một Chúa đã lãnh nhận
phép rửa của thánh Gioan trong dòng nước sông Gio-đan và được Chúa Thánh Thần
ngự xuống trên mình. Lúc bị treo trên thập giá, Người đã để cho máu cùng nước từ
cạnh sườn chảy ra. Và sau khi sống lại, Người đã truyền cho các môn đệ rằng:
"Anh em hãy đi giảng dạy và làm phép rửa cho muôn dân nhân danh Cha, và
Con và Thánh Thần". Vậy giờ đây, lạy Chúa, xin thương nhìn đến Giáo Hội và
khơi lên giữa lòng Giáo Hội nguồn nước thánh tẩy. Xin cho dòng nước này được thấm
nhuần Thần Khí của Ðức Kitô, để nhân loại Chúa đã dựng nên theo hình ảnh Chúa
được thanh tẩy khỏi mọi vết nhơ con người cũ và tái sinh làm người mới nhờ nước
và Thánh Thần.
Linh mục có thể nhúng cây nến
Phục Sinh vào nước một hoặc ba lần và đọc:
Lạy Chúa, nhờ công ơn Con Một Chúa, xin cho nước này đầy tràn sức
mạnh của Chúa Thánh Thần để những ai được dìm trong nước thánh tẩy này nghĩa là
cùng chết và chịu mai táng với Ðức Kitô, cũng được sống lại với người để hưởng
phúc trường sinh. Người hằng sống và hiển trị muôn đời".
- Lặp lại lời hứa khi Rửa Tội - Rảy nước thánh - Lời nguyện cộng đoàn.
4.4. Phụng Vụ Thánh Thể
4.5. Lượt tóm nghi thức Thứ Bảy Vọng Phục Sinh
Phần 1: Làm phép lửa mới
Đến giờ lễ mọi người tập trung tại nơi làm phép lửa. Nếu có lời
dẫn thì đọc lời dẫn trước các phần Phụng Vụ.
+ Tắt hết các đèn trong nhà thờ, Chủ tế và giúp lễ tiến đến nơi
đã dọn sẵn đống lửa.
+ Linh mục đọc Lời mời gọi đầu số 8.
+ Lời nguyện làm phép lửa mới số 9 X
+ Người giúp lễ cầm nến Phục sinh đứng trước chủ tế. Chủ tế
dùng cây bút vẽ hình Thánh Giá trên nến, rồi viết chữ Alpha phía trên, và chữ
Ômêga phía dưới hình Thánh Giá, đoạn viết bốn con số chỉ năm đó ở bốn góc Thánh
Giá, vừa viết vừa đọc những lời sau đây:
1. Đức Kitô vẫn là một, (vẽ đường dọc)
2. Hôm qua cũng như hôm nay (vẽ đường ngang)
3. Là An-pha và Ô-mê-ga, (viết chữ A trên Thánh Giá)
4. Nghĩa là khởi nguyên và tận cùng (viết chữ Ô-mê-ga phía
dười Thánh Giá)
5. Người làm chủ thời gian (viết số đầu của năm nơi góc
trái phía trên Thánh Giá)
6. Và muôn thế hệ (viết số thứ hai của năm nơi góc phải
phía trên Thánh Giá)
7. Vạn tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (viết số thứ
ba của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá)
8. Vạn vạn tuế. A-men. (viết số thứ tư của năm nơi góc phải
phía dưới Thánh Giá)
|
A
2 0
1 9
Ω
|
+ Vẽ hình Thánh Giá và ghi số năm xong, chủ tế gắn 5 hạt đinh
hương theo hình Thánh Giá trên nến phục sinh, vừa gắn vừa đọc như sau:
1. Vì năm vết đinh thương
2. Chí thánh và vinh hiển
3. Xin Chúa Kitô
4. Gìn giữ
5. Và bảo vệ chúng ta. Amen.
|
1
4 2 5
3
- Giúp lễ lấy than lửa vào bình hương.
+ Chủ Tế lấy lửa mới thắp nến phục sinh và nói:
Xin Đức Kitô, Đấng Phục Sinh vinh hiển, chiếu giãi ánh sáng của
Người để phá tan bóng tối đang bao phủ lòng trí chúng ta.
+ Kiệu nến Phục Sinh
+ Chủ Tế cầm nến Phục Sinh nâng cao và hát: "Ánh sáng Chúa
Kitô".
- Cộng đoàn thưa “Tạ Ơn Chúa”.
+ Đến giữa nhà thờ chủ tế hát lần thứ hai thì đốt nến cho cộng
đoàn. Đến cung thánh hát lần thứ ba. Đặt nến Phục Sinh lên giá, xông hương.
+ Công bố Tin Mừng Phục Sinh.
Phần 2: Phụng vụ Lời Chúa
- Cộng đoàn tắt nến ngồi nghe Lời Chúa (có thể dẫn trước các
bài đọc)
- Sau mỗi bài đọc, Ca đoàn hát Đáp Ca và Chủ tế đọc lời nguyện
(đứng).
+ Sau khi hát xong bài Đáp Ca cuối cùng của
các bài Cựu Ước và sau khi linh mục đọc Lời Nguyện. Chủ Tế đứng xướng kinh
Vinh Danh.
- Linh mục xướng Kinh Vinh Danh (có rung chuông), thắp các nến
trên bàn thờ, mở hết các điện trong nhà thờ, chưng hoa trên bàn thờ, cung
thánh.
- Sau kinh Vinh Danh, linh mục chủ tế đọc Lời Nguyện.
- Bài đọc Thánh Thư.
- Sau bài Thánh Thư, bắt đàn cho linh mục xướng ALLELUIA (3 lần)
- Sau khi linh mục xướng Alleluia, Ca đoàn đứng hát Đáp Ca:
Tv117 : Cộng đoàn Đáp: Alleluia
- Sau bài Đáp Ca thì đọc Phúc Âm và giảng. (có xông hương Phúc
âm)
Phần 3: Phụng vụ Thánh Tẩy
- Sau bài giảng đến phần Phụng Vụ Thánh Tẩy, Linh mục đọc Lời mời
gọi (chọn 1 trong hai lời mời gọi nếu không có người rửa tội thì đọc lời thứ
hai)
- Sau lời mời gọi, (nếu có người Rửa tội thì hát Kinh Cầu Các
Thánh).
- Đọc lời mời gọi xong L.m Chủ tế đọc lời nguyện làm phép nước.
Hoặc sau kinh cầu các thánh thì đọc lời nguyện làm phép nước. (chọn 1 trong hai
lời số 42 hoặc số 45)
- Linh mục Làm Phép Nước [và nghi thức Rửa Tội + Thêm Sức (nếu
có dự tòng)]
- Lập lại lời tuyên hứa khi lãnh Bí Tích Rửa Tội.
- Sau câu “Thưa Con Tin” cuối cùng, linh mục đọc Lời Nguyện.
- Sau lời nguyện, Ca đoàn hát, hoặc chủ tế xướng “Tôi đã thấy
nước”- Linh mục rảy nước thánh trên dân chúng.
- Sau phần Rảy Nước Thánh, đến phần Lời Nguyện Giáo Dân (không
có Kinh Tin Kính) - (nếu có người dự tòng thì sắp xếp cho họ dâng lễ vật).
Phần 4: Phụng vụ Thánh Thể
Sau phần Lời Nguyện Giáo Dân, hát Ca Dâng Lễ và Thánh lễ tiếp tục
như thường.
5. Cơ cấu nhập đạo của người lớn
Thánh Bộ phượng tự ban hành nghi
thức gia nhập đạo cho người lớn ngày 6/1/1972 (số 6):
"Trong con đường này, ngoài thời gian tìm hiểu và trưởng
thành hóa, người dự tòng phải tiến dần từng "giai đoạn", như tiến qua
cửa hoặc như tiến lên bậc thang.
1. Giai đoạn 1 là khi đương sự khởi đầu việc trở lại, muốn tòng
giáo và được Hội Thánh nhận làm người dự tòng.
2. Giai đoạn 2 là khi đương sự đã có lòng tin khá vững chắc, và
đã gần xong thời dự tòng, được chấp nhận để tích cực chuẩn bị lãnh nhận các bí
tích.
3. Giai đoạn 3 là khi đương sự đã được chu đáo chuẩn bị về mặt
thiêng liêng, lãnh nhận các bí tích để bắt đầu cuộc đời Kitô hữu.
Như vậy ta thấy có 3 giai đoạn, tức
ba bậc hay ba cửa, như ba tác động quan trọng của việc gia nhập đạo. Mỗi giai
đoạn được biểu thị bằng một nghi lễ phụng vụ: Giai đoạn 1 có nghi lễ tiếp nhận
người dự tòng, giai đoạn 2 có nghi lễ tuyển chọn, giai đoan 3 có việc cử hành
các Bí tích Khai tâm Kitô giáo.
số 7:
Nhưng các giai đoạn đòi hỏi phải
có những thời gian tìm hiểu và trưởng thành hóa hoặc nhờ những thời gian này mà
chuẩn bị:
1. Thời chuẩn dự tòng
đòi hỏi phía đương sự phải sẵn sàng từ bỏ tội lỗi, có ý muốn thực sự theo Chúa
Kitô, tìm hiểu về Tin Mừng, và hướng tới việc xin lãnh nhận Bí Tích Rửa tội. Về
phía Hội thánh là lúc khởi giảng Phúc Âm (số 10) và trong suốt thời gian này ,
các vị chủ chăn phải nâng đỡ những thành viên bằng những lời cầu nguyện thích hợp
(số13); thời gian này sẽ chấm dứt khi đương sư gia nhập bậc dự tòng.
2. Thời dự tòng bắt đầu từ
khi nhập bậc dự tòng và có thể kéo dài nhiều năm, là thời gian học hỏi đạo lý
và các nghi lễ liên hệ đến đương sự. "Nghi lễ Nhận làm người dự tòng được
coi là rất quan trọng, vì chưng lúc đó các đương sự lần đầu tiên công khai họp
lại, bày tỏ cho Hội Thánh biết ý muốn của họ, đồng thời Hội Thánh thực hiện chức
vụ tông đồ mà tiếp nhận những người muốn trở thành chi thể của Hội Thánh. Chúa
sẽ rộng ban ơn thánh cho họ, khi họ côn gkhai bày tỏ ý muốn của họ bằng cuộc cử
hành này và khi tiếp nhận và thánh hiến họ lần đầu tiên được Hội Thánh chứng
giám" (số 14). Nghi lễ tiếp nhận thường cử hành vào Chúa nhật đầu
tháng 10. Thời gian này sẽ kết thúc trong ngày tuyển chọn.
3. Thời gian thanh tẩy và soi
sáng, thường bắt đầu vào chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, mùa chuẩn bị
tham dự những nghi thức lễ trọng Phục Sinh và lãnh nhận các bí tích.
- Thời gian này có nghi lễ Tuyển
chọn, tức là chọn lựa và tiếp nhận những người dự tòng. "Thời kỳ thanh
tẩy và soi sáng là giai đoạn thứ hai trong việc nhập đạo nhầm ráo riết chuẩn bị
tinh thần và tâm hồn. Trong giai đoạn này, Hội Thánh thực hiện nghi lễ Tuyển
Chọn, tức là chọn lựa và tiếp nhận những người dự tòng nào đã được chuẩn
bị tương xứng để được tham dự vào cuộc cử hành các bí tích nhập đạo sắp tới. Gọi
là TUYỂN CHỌN, vì các việc Hội Thánh tiếp nhận dựa vào sự tuyển chọn của Thiên
Chúa mà Hội Thánh hành động nhân danh Người; cũng còn gọi là nghi lễ GHI DANH,
vì các thỉnh nhân ghi tên mình vào sổ những người đã được tuyển chọn để nên bảo
chứng cho sự trung thành". (số 22).
- Nghi lễ khảo hạch và trao kinh:
Nhằm để chuản bị kỹ lưỡng tâm hồn, bồi dưỡng thiêng liêng, vừa hướng về việc
thanh tẩy tâm tình nhờ việc xét mình và sám hối, vừa để soi sáng tâm tình do sự
nhìn biết Chúa Kitô Cứu Thế cách sâu rộng hơn (x. số 25).
a/ "Nghi lễ KHẢO HẠCH được tổ
chức long trọng trong các chúa nhật nhằm hai mục tiêu nói trên, nghĩa là để giải
bày những gì là yếu đuối, là bệnh hoạn, là xấu xa trong tâm hồn những người đã
được tuyển chọn hầu chữa cho lành mạnh; và cũng để khám phá những gì là tốt đẹp,
là mạnh mẽ, là thánh thiện trong tâm hồn họ hầu làm cho vững mạnh hơn. Vì nghi
lễ khảo hạch nhằm giải thoát khỏi tội lỗi và ma quỷ, đồng thời làm cho họ vững
mạnh trong Chúa Kitô, Người là đường, là sự thật và là sự sống của những người
đã được tuyển chọn". (số 25)
b/ "Với nghi lễ TRAO KINH, Hội
Thánh nhằm trao cho những người đã được tuyển chọn những tại iệu cổ kính về đức
tin và việc cầu nguyện, đó là KINH TIN KÍNH và KINH LẠY CHA. Mục đích là để soi
sáng họ. Con mắt họ sẽ nhờ đức tin và niềm hân hoan thúc đẩy, tìm hiểu trong
kinh Tin Kính tất cả những việc trọng đại của Chúa đối với phần rỗi nhận loại.
Trong kinh Lạy Cha, họ sẽ nhận ra cách sâu rộng hơn tinh thần mới của con cái
Chúa, với tinh thần này họ sẽ gọi Chúa là Cha, nhất là khi tập họp tham dự Thánh
Lễ". (số 25)
Số 26:" Để chuẩn bị gần lãnh
nhận các Bí Tích:
1. Hãy bảo người được tuyển chọn biết rằng trong Thứ Bảy Tuần
Thánh, họ hãy cố gắng gác lại những công việc thường ngày để dành thời giờ cầu
nguyện, tĩnh tâm và giữ chay tùy sức họ.
2. Cũng trong ngày đó, nếu có cuộc họp những người đã được tuyển
chọn, thì cũng có thể cử hành một vài nghi lễ chuẩn bị gần, thí dụ: Nghi lễ đọc
KINH TIN KÍNH, nghi lễ "Hãy mở ra", chọn tên thánh và có thể xức dầu
dự tòng.
c/ Cử hành các bí Tích gia nhập đạo (giai đoạn 3 trong tiến
trình gia nhập đạo)
4. Thời gian thứ tư: là thời kỳ nhiệm huấn bao gồm tất cả
mùa Phục Sinh. Tức là thời gian hưởng nghiệm để thu lượm kết quả, đồng thời để
thắt chặt tình giao hảo và giây liên kết với cộng đồng tín hữu.
"Vì tính chất hiệu lức riêng của thời kỳ này là do sự hưởng
nghiệm và cá nhân về các nhiệm tích cũng như về cộng đồng, nên điểm chính yếu của
nhiệm huấn là những Thánh Lễ mà phụng
vụ thường gọi là THÁNH LỄ CẦU CHO NHỮNG TÂN TÒNG, tức là những Thánh Lễ các
Chúa Nhật Phục Sinh, vì chưng trong những Thánh Lễ này, ngoài việc cộng đồng tập
họp và tham dự các mầu nhiệm, nhưng người tân tòng còn gặp được, nhất là trong
năm A sách Bài Đọc, những bài đọc đặc biệt xứng hợp với họ. Bởi đấy tất cả công
đọng địa phương được mời gọi tham dự những thánh lễ này cùng với các tân tòng
và các người đỡ đầu của họ, và cũng có thể dùng bản văn các Thánh Lễ đó cả khi
việc nhập đạo được cử hành ngoài các mùa" (Số 40)
Vậy có 4 thời gian liên tiếp:
- Thời chuẩn dự tòng có đặc tính là khởi giảng Phúc Âm
- Thời dự tòng nhằm học giáo lý đầy đủ.
- Thời thanh tẩy và soi sáng nhằm tích cực chuẩn bị về mặt
thiêng liêng.
-Thời nhiệm huấn biểu lộ bằng việc hưởng nghiệm các Bí tích và
đời sống cộng đồng.
6. NGHI THỨC GIA NHẬP ĐẠO CHÚA VÀ RỬA TỘI NGƯỜI LỚN
Trích Nghi Thức Gia Nhập Kitô giáo của người lớn, Ủy Ban Giám mục về
Phụng vụ xuất bản, Sàigòn 1974, trang 38.
6.1. Giai đoạn 1
NGHI THỨC NHẬN LÀM NGƯỜI DỰ TÒNG
(Cử hành vào Chúa Nhật đầu tháng Mười).
Nghi Lễ mở đầu
Các thỉnh nhân với người bảo lãnh (đỡ đầu) và cộng đồng tín hữu
hội lại ở tiền đường nhà thờ.
Chủ tế mặc phẩm phục thánh lễ, tới chào và nói đôi lời với các
thỉnh nhân, người bảo lãnh và cộng đồng về niềm vui của Hội thánh khi tiếp nhận
những người muốn theo Chúa...
Chủ lễ (CL): Gọi tên từng người theo danh sách...
Thỉnh nhân (TN): Có mặt.
CL: Anh chị em xin điều gì cùng Hội thánh Chúa?
TN: Con xin đức tin.
CL: Đức tin sinh ơn ích gì cho anh chị em?
TN: Đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.
CL: Tất cả mọi người sinh ra ở đời đều được Chúa soi sáng. Qua
thụ tạo, Chúa tỏ cho thấy những sự vô hình của Người, để nhân loại biết cảm tạ
Đấng Tạo hoá. Anh chị em đã theo ánh sáng Người, nên giờ đây Người rộng mở con
đường Phúc âm: để khi nhìn biết Chúa hằng sống, Đấng đã thực sự nói với loài
người, anh chị em đặt nền tảng đời sống siêu nhiên; khi tin tưởng vào thượng
trí của Người, anh chị em bước đi trong ánh sáng Chúa Kitô, và khi hết lòng tin
tưởng vào Người, anh chị em ngày càng phó thác đời sống mình nơi Người. Đó là
con đường đức tin mà Chúa Kitô sẽ dẫn đưa anh chị em trong tình yêu mến, để anh
chị em được sống đời đời. Vậy nhờ Chúa hướng dẫn, hôm nay anh chị em đã sẵn
sàng bước vào con đường đức tin đó chưa?
TN: Con sẵn sàng.
CL: (nói với người bảo lãnh): Anh chị em bảo lãnh, giờ đây anh
chị em giới thiệu những thỉnh nhân này với chúng tôi, cũng như tất cả mọi người
đứng quanh đây, anh chị em có sẵn lòng giúp đỡ những người này tìm gặp và bước
theo Chúa Kitô không?
Mọi người bảo lãnh: Chúng con sẵn lòng giúp họ.
CL: Lạy Chúa Cha nhân từ, chúng con cảm tạ Cha vì những tôi tớ
Cha đây, nhờ ơn Cha kêu gọi thúc đẩy bằng nhiều cách, họ đã tìm kiếm Cha, và
hôm nay trước mặt chúng con, họ đáp lại tiếng Cha kêu gọi. Vậy lạy Cha, mọi người
chúng con ngợi khen và chúc tụng Cha.
Mọi người: Lạy Cha, chúng con ngợi khen và chúc tụng Cha.
CL: Anh chị em thân mến, anh chị em đã chấp nhận đời sống và niềm
hy vọng nơi Chúa Kitô, giờ đây, để làm cho anh chị em trở thành người dự tòng,
các người bảo lãnh sẽ ghi dấu Thánh giá Chúa Kitô trên trán anh chị em (Chủ lễ
làm dấu thánh giá trên mỗi người, các người bảo lãnh ghi dấu Thánh giá trên
trán người mình đỡ đầu).
CL: Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Cha Toàn năng, Cha đã dùng thánh giá và mầu nhiệm
phục sinh của Con Cha mà ban sự sống cho dân Cha, chúng con nài xin Cha ban cho
các tôi tớ Cha mà chúng con đã ghi dấu Thánh giá, khi bước theo chân Đức Kitô,
biết nắm giữ nguồn sinh lực Thánh giá bằng đời sống, và biểu lộ nguồn sinh lực ấy
bằng hành động. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Mọi người: Amen.
CL: Xin mời anh chị em tiến vào thánh đường để cùng với chúng
tôi tham dự bàn tiệc Lời Chúa.
(Mọi người tiến vào thánh đường, ca đoàn hát ca nhập lễ
Chủ lễ đọc lời nguyện, bỏ kinh Thương xót và Vinh Danh)
Lời nguyện giáo dân
Cầu nguyện cho các người Dự Tòng
Chủ Lễ: Chúng ta hãy chung vui với các anh chị em dự tòng, vì
nhờ Chúa nhân lành dẫn đưa, họ đã qua một quãng đường dài để tiến tới ngày hôm
nay. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các anh chị em này vượt qua những quãng đường
dài còn lại, để tham dự đầy đủ vào đời sống Công giáo như chúng ta.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha trên trời mạc khải
cho họ Đấng Kitô của Người mỗi ngày một hơn. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ được thành tâm
bền chí tuân theo trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ trong khi theo
đường lối Chúa, được hưởng nhờ sự nâng đỡ thành tâm và liên tục của cộng đồng
Kitô hữu. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ được tìm thấy
nơi cộng đồng chúng ta sự đồng tâm và tinh thần bác ái dồi dào. Chúng con cầu
xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ và cho chúng
ta mỗi ngày được biết cảm thông hơn trước những nhu cầu của nhân loại. Chúng
con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ được thực sự xứng
đáng khi lãnh nhận phép rửa, bí tích tái sinh và canh tân của Chúa Thánh Thần.
Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho Đức Giáo hoàng T...,
hàng giáo phẩm trong Hội thánh được mạnh mẽ, yêu thương dẫn dắt đoàn chiên Chúa
khắp nơi. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho thế giới được bình
an, cho tổ quốc Việt nam trường tồn, cho cộng đoàn chúng ta đoàn kết thương yêu
nhau hơn. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban ơn lành cho mỗi người
trong giây phút âm thầm này... Chúng con cầu xin Chúa
Chủ Lễ: Chúng ta hãy cầu nguyện,
Lạy Chúa là Đấng Sáng tạo muôn loài, chúng con nài xin Chúa
đoái nhìn các tôi tớ Chúa đây là những người được nhận vào số dự tòng hôm nay,
mà ban cho họ lòng sốt sắng, niềm hoan hỉ cậy trông, và hằng tôn vinh Danh
Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn họ tới giếng nước tái sinh, để cùng với các tín hữu
Chúa sống cuộc đời phong phú, họ được phần thưởng muôn đời như Chúa đã hứa ban.
Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
6.2. Giai đoạn 2
NGHI LỄ TUYỂN CHỌN GHI DANH CHÍNH THỨC
(Cử hành vào lễ Chúa nhật
thứ nhất Mùa Chay, sau bài giảng, Lời bảo số 140)
(Trích Nghi Thức Gia nhập Kitô
Giáo của Người Lớn, Ủy ban Giám mục về Phụng vụ xuất bản, Sài gòn 1974 trang
74)
(Trong nghi lễ này, sau khi đã
nghe lời chứng của người đỡ đầu và người dạy giáo lý, và dựa vào quyết tâm của
những người dự tòng, Hội thánh xét đoán về tình trạng chuẩn bị của họ mà quyết
định có nên cho họ chịu các bí tích "vượt qua" hay không.
Nghi lễ tuyển chọn kết thúc thời
kỳ dự tòng, bước sang thời kỳ tuyển chọn, đòi mỗi người ý chí cương quyết hơn,
tin tưởng mãnh liệt hơn, theo Chúa Kitô cách quảng đại hơn.
GIỚI THIỆU CÁC THỈNH NHÂN
(Giảng xong bài giảng liên quan đến
các dự tòng và cộng đồng tín hữu, người dạy giáo lý hay đại diện cộng đồng
trình bày như sau:
Giáo lý viên: Kính thưa cha, lễ
trọng vượt qua sắp đến, nhờ ơn Chúa, nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của cộng
đồng nâng đỡ, những người dự tòng đây khiêm tốn xin được chấp nhận cho tham dự
các Bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể sau khi được chuẩn bị đầy đủ và cử
hành những nghi lễ khảo hạch.
Chủ lễ: Xin mời tất cả những người
sắp được tuyển chọn cùng với các người đỡ đầu tiến lên.
(Giáo lý viên gọi tên từng người,
người được gọi thưa : Có mặt, rồi tiến lên cùng với người đỡ đầu)
Chủ lễ: Giờ đây Hội thánh Chúa muốn
biết chắc những người dự tòng này có xứng đáng được nhận vào sổ những tuyển
nhân hầu mừng lễ trọng vượt qua sắp tới hay không.
(nói với những người đỡ đầu:
Bởi đấy, xin ông bà, anh chị em đỡ
đầu làm chứng: Những người dự tòng này có trung tín nghe lời Chúa do Hội Thánh
loan truyền không?
Những người đỡ đầu: Thưa họ có
trung tín nghe.
Chủ lễ: Họ đã bắt đầu sống trước
mặt Chúa và tuân giữ lời đã tiếp nhận chưa?
Những người đỡ đầu: Thưa họ đã bắt
đầu.
Chủ lễ: Họ có chia sẻ đời sống
huynh đệ và cầu nguyện không?
Những người đỡ đầu: Thưa có.
Chủ lễ: Trước mặt Chúa, ông bà
anh chị em đỡ đầu xét những thỉnh nhân này có xứng đáng để được chấp nhận cho
chịu các Bí tích gia nhập Kitô giáo không?
Những người đỡ đầu: Thưa chúng
con xét rằng họ xứng đáng.
THẨM VẤN CÁC THỈNH NHÂN
Chủ lễ: Anh chị em dự tòng thân mến,
giờ đây tôi có đôi lời cùng anh chị em. Các người đỡ đầu, các người dạy giáo lý
đều làm chứng tốt cho anh chị em. Dựa vào thiện ý của những người đó, Hội thánh
nhân danh Chúa Kitô mời anh chị em lãnh nhận các Bí tích vượt qua. Vậy từ lâu
anh chị em đã nghe tiếng Chúa Kitô, thì bây giờ anh chị em hãy thành thật trả lời
trước mặt Hội thánh. Anh chị em có muốn lãnh nhận các Bí tích nhập đạo của Chúa
Kitô là phép Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể không?
Các người dự tòng: Thưa chúng con
muốn.
Chủ lễ: Vậy xin anh chị em vui
lòng cho biết quí danh.
(Các thỉnh nhân đứng tại chỗ lần
lượt nói tên mình, hoặc nếu đông quá thì Giáo lý viên đã xướng tên: Thưa đây là
danh sách các thỉnh nhân, và đưa trình bản danh sách).
NGHI LỄ TUYỂN CHỌN
Chủ lễ: Anh chị em đã được tuyển
chọn, anh chị em sẽ bắt đầu được tham dự vào các mầu nhiệm thánh trong lễ (Vọng)
Phục sinh sắp tới.
Các người dự tòng: Tạ ơn Chúa.
Chủ lễ: Giờ đây nhiệm vụ của anh
chị em cũng như của tất cả chúng tôi là nhờ Chúa nâng đỡ mà hiến dâng lòng
trung tín của anh chị em lên Chúa là Đấng trung thành với lời Người kêu gọi.
Anh chị em hãy hết lòng cố gắng hiểu biết đầy đủ việc tuyển chọn của anh chị
em.
Chủ lễ nói với những người đỡ đầu:
Ông bà anh chị em đỡ đầu thân mến, các người dự tòng mà anh chị em đã làm chứng,
anh chị em hãy phó thác họ cho Chúa, hãy dùng những hành động huynh đệ và gương
sáng mà tiếp tục giúp đỡ họ cho đến ngày họ lãnh nhận các Bí tích ban sự sống của
Chúa.
(Các người đỡ đầu đặt tay phải
trên vai các thỉnh nhân)
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN
Chủ lễ: Anh chị em thân mến, đang
khi đón mừng mầu nhiệm cứu độ của Đấng đã chịu khổ nạn và phục sinh, hôm nay
chúng ta bước vào mùa Chay. Các tuyển nhân đã được chúng ta hướng dẫn tới tham
dự những mầu nhiệm vượt qua, đang trông chờ chúng ta đổi mới để noi gương. Vì vậy
chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ và cho chúng ta, để nhờ việc khuyến khích lẫn
nhau, chúng ta trở nên xứng đáng lãnh nhận các ơn vượt qua.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho các người dự tòng nhớ ngày được tuyển chọn mà luôn luôn hân hoan vì ơn
phúc bởi trời. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho những người dự tòng biết lợi dụng thời gian thuận tiện mà chấp nhận những
khó khăn trong việc từ bỏ, và cùng chúng ta thánh hoá bản thân. Chúng con cầu
xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin
Chúa thương giúp những người dạy giáo lý biết bày tỏ cho những người đang tìm
Chúa cảm thấy lời Chúa ngọt ngào. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho những người đỡ đầu biết bày tỏ cho các người dự tòng thấy việc thực
thi Phúc âm trong đời tư và trong đời sống xã hội. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho các gia đình người dự tòng, để đừng ai ngăn trở, nhưng còn giúp họ
theo ơn Chúa Thánh thần thúc đẩy. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho cộng đoàn chúng ta biết nêu gương bác ái và kiên tâm cầu nguyện trong
mùa Chay này. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin
Chúa cho tất cả những ai đang còn nghi ngờ do dự, biết tin tưởng vào Chúa Kitô
mà hiệp thông với chúng ta trong tình huynh đệ. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin
Chúa cho Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô, hàng giáo phẩm trong Hội thánh được mạnh
mẽ sáng suốt chăn dắt đoàn chiên Chúa khắp nơi. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin
Chúa cho thế giới được bình an, cho Tổ quốc Việt nam trường tồn, cho cộng đoàn
chúng ta đoàn kết thương yêu nhau hơn và sốt sắng làm việc tông đồ. Chúng con cầu
xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cùng cầu xin
Chúa ban ơn lành cho mỗi người trong mùa Chay này trong giây phút âm thầm...
Chúng con cầu xin Chúa.
Chủ lễ: Lạy Chúa Cha Toàn năng,
Chúa đã muốn phục hồi mọi sự trong Đức Kitô và đưa nhân loại tới cùng Người.
Xin đoái thương dẫn dắt các người Hội thánh đã tuyển chọn đây, và ban cho họ được
trung thành với ơn kêu gọi đã lãnh nhận, để xứng đáng gia nhập nước Con Chúa,
và được ghi dấu Chúa Thánh Thần mà Chúa đã hứa ban. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng
con.
Tất cả: Amen.
6.3. Giai đoạn 3
CỬ HÀNH CÁC BÍ TÍCH NHẬP ĐẠO
(Cử hành trong lễ Vọng Phục sinh)
(Trích Nghi thức Gia nhập Kitô
giáo của người lớn, Uỷ ban Giám mục về Phụng vụ Việt nam xuất bản, Sài gòn 1974
trang 140)
a/ CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH TẨY
(Sau bài giảng, các người sắp lãnh Bí tích Rửa tội và những người
đỡ đầu tiến lại gần đứng chung quang giếng rửa tội.)
Lời nhắn nhủ của chủ lễ
Chủ lễ: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa
thương đến các tôi tớ Chúa đây, đang xin lãnh Bí tích Rửa tội. Chính Người đã
kêu gọi và dẫn đưa họ tới giờ này, thì xin Ngươi ban cho họ ánh sánh và sức
mạnh, để họ nhiệt tâm gắn bó với Chúa Kitô và tuyên xưng đức tin của Hội Thánh.
Cũng xin Người ban Chúa Thánh Thần đến đổi mới họ, Đấng mà chúng ta sẽ thành khẩn
nài xin xuống trên nước này.
Kinh cầu Các Thánh
(Có thể thêm vào tên thánh Bổn mạng thánh đường, và tên thánh Bổn
mạng các người sắp lãnh Bí tích Rửa tội)
Xin Chúa thương xót chúng con
Xin Chúa thương xót chúng con
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con
Xin Chúa thương xót chúng con
Xin Chúa thương xót chúng con
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời,
Cầu cho chúng con.
Thánh Micae Thiên thần của Thiên Chúa
Thánh Gioan Tẩy giả
Thánh Giuse
Thánh Phêrô và thánh Phaolô
Thánh Anrê
Thánh Gioan
Thánh nữ Maria Mađalena
Thánh Inhaxiô thành Antiôkia
Thánh Laurensô
Thánh Pepetua và Phêlixita
Thánh nữ Anê
Thánh Grêgôriô
Thánh Augutinô
Thánh Athanasiô
Thánh Basiliô
Thánh Martinô
Thánh Bênêđitô
Thánh Phanxicô và Đôminicô
Thánh Phanxicô Xavie
Thánh Gioan Maria Vianê
Thánh nữ Catarina thành Siêna
Thánh nữ Têrêxa thành Avila
Các Thánh Tử đạo Việt nam
(thêm tên thánh người được rửa tội...)
Các thánh nam nữ của Thiên Chúa
Xin Chúa tỏ lòng khoan dung,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Khỏi mọi sự dữ,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Khỏi phạm tội lỗi,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Khỏi chết muôn đời,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Vì mầu nhiệm Chúa làm người,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Vì Chúa chịu chết và sống lại,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Vì Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Chúng con là kẻ có tội
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Xin Chúa đoái thương tái sinh các tuyển nhân này nhờ ơn thánh
phép Rửa tội,
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống,
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Lạy Đức Kitô,
Xin nghe lời chúng con.
Lạy Đức Kitô,
Xin nhận lời chúng con.
Lạy Đức Kitô,
Xin nhận lời chúng con.
Làm phép nước
(Chủ lễ hướng về giếng Rửa tội và đọc:
Lạy Chúa, nhờ các dấu hiệu của Bí tích, Chúa dùng quyền năng vô
hình mà thực hiện hiệu quả lạ lùng, và bằng nhiều cách đã sửa soạn nước này là
tạo vật của Chúa, để bày tỏ ân sủng Bí tích Rửa tội. Lạy Chúa, trong buổi sơ
khai của thế gian, Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước, để ngay từ đó, chất
nước đã mang sức thánh hoá. Lạy Chúa, trong chính nước hồng thủy, Chúa đã cho
thấy hình ảnh ơn tái sinh, để nhờ mầu nhiệm cũng một thứ nước, chấm dứt các
tính mê nết xấu, và khơi nguồn các nhân đức. Lạy Chúa, Chúa đã làm cho con cái
Israel đi qua Biển đỏ ráo chân, để cho toàn dân được giải thoát khỏi ách nô lệ
Pharaon, tiên báo một dân tộc mới, gồm những người đã được thanh tẩy. Lạy Chúa,
Con Chúa đã được Gioan làm phép rửa trong sông Giođan và được Chúa Thánh Thần xức
dầu tấn phong. Khi bị treo trên thập giá, Người đã để nước cùng máu chảy ra từ
cạnh sườn Người, và sau khi sống lại, Người đã truyền cho các tông đồ rằng:"Các
con hãy đi dạy dỗ muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân Danh Cha và Con và Thánh
Thần", vì vậy, xin Chúa đoái thương nhìn đến Hội Thánh Chúa, và khơi cho Hội
Thánh nguồn nước rửa tội. Xin cho nước này mang lại ơn thánh của Con Chúa do
Chúa Thánh Thần, để con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa, nhờ Bí tích Rửa
tội, được tẩy sạch mọi vết nhơ tội xưa, đáng được sống lại bởi nước và Thánh Thần
trong tuổi thơ ấu mới.
(Chủ lễ chạm tay vào nước và đọc tiếp:
Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa cho sức mạnh của Thánh Thần,
nhờ Con Chúa, xuống trên giếng đầy nước này, để khi mọi người nhờ Bí tích Rửa tội,
đã được an táng cùng Chúa Kitô hầu chết cho tội, thì cũng được phục sinh với
Người trong sự sống. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Mọi người thưa: Amen.
Từ bỏ tà thần
(Chủ lễ hỏi các thỉnh nhân:
- Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị em có từ
bỏ tội lỗi không?
- Thưa từ bỏ.
- Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, anh chị em có từ bỏ những quyến rũ
bất chính không?
- Anh chị em có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi
không?
Tuyên xưng đức tin
- Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo
thành trời đất không?
- Thưa tin.
- Anh chị em có tin Đức Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa Chúa
chúng ta, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại
từ cõi chết, và đang ngự bên hữu Chúa Cha không?
- Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh
Công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại, và sự
sống vĩnh cửu không?
Nghi lễ Rửa Tội
(Người đỡ đầu đặt tay trên vai bên phải thỉnh nhân)
(Thánh) CHA (TÔI) RỬA (Con, ÔBACE) NHÂN DANH CHÚA CHA,
(đổ nước lần thứ nhất)
VÀ CHÚA CON,
(đổ nước lần thứ hai)
VÀ CHÚA THÁNH THẦN
(đổ nước lần thứ ba)
Xức Dầu Thánh
Nếu không cử hành Bí tích Thêm sức ngay thì chủ lễ xức dầu cho
họ.
Chủ lễ đọc:
Thiên Chúa Toàn năng là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, đã
tái sinh (Thánh,) bởi nước và Thánh Thần, và đã giải thoát (T) khỏi tội lỗi.
Chính Người xức dầu cứu độ cho () để sau khi nhập đoàn với dân Người, (T) mãi
mãi là chi thể của Đức Kitô, là tư tế, tiên tri và vương đế cho đến cõi sống
muôn đời.
Thỉnh sinh thưa: Amen.
Chủ lễ thinh lặng xức dầu trên đỉnh đầu người đã được rửa tội.
Mặc áo trắng
Chủ lễ:
...(T) đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô, vậy (T)
hãy nhận lấy chiếc áo trắng này, và hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến
khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, để (T) được sống muôn đời.
- Amen.
Trao nến sáng
Chủ lễ chạm vào cây nến phục sinh và nói:
Các người đỡ đầu hãy tiến lại trao đèn (nến) sáng cho người tân
tòng.
(Người đỡ đầu thắp nến từ cây nến Phục sinh và trao cho người
tân tòng)
Chủ lễ:
(T) đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, (T) hãy luôn sống như con
cái sự sáng, để được bền vững trong đức tin, khi Chúa đến (T) xứng đáng ra
nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời.
- Amen.
b/. CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÊM SỨC
Chủ lễ:
Anh chị em tân tòng thân mến, anh
chị em đã được tái sinh trong Chúa Kitô, được trở nên chi thể và thành phần dân
tư tế của Người, giờ đây (ace) còn phải lãnh nhận Chúa Thánh Thần đã ngự xuống
tràn đầy trên chúng tôi. Chúa đã ban Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần, chính
các Tông đồ và các Đấng kế vị lại ban cho những người đã được rửa tội.
Vậy anh chị em cũng lãnh nhận sức
mạnh Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa đã hứa ban, để nhờ đó một khi trở nên giống
Chúa Kitô hơn, (ace) làm chứng về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa và trở
thành chi thể hoạt động của Hội Thánh, hầu xây dựng Nhiệm thể Chúa Kitô trong đức
tin và đức mến.
Chủ lễ quay về phía giáo dân đọc
tiếp:
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy
cầu xin Thiên Chúa Cha toàn năng đoái thương ban tràn đầy Chúa Thánh Thần xuống
trên người tân tòng đây,để Chúa Thánh Thần dùng ơn hụê dồi dào của Người làm
cho người tân tòng này nên vững mạnh, và xức dầu để người này nên giống Chúa
Kitô Con Thiên Chúa.
(Thinh lặng cầu nguyện giây lát,
đoạn Chủ lễ đặt hai tay trên thụ nhân và đọc:
Lạy Thiên Chúa toàn năng là Cha Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng tôi, Chúa đã tái sinh tôi tớ Chúa đây bởi nước và Thánh
Thần khi giải thoát tôi tớ Chúa khỏi tội lỗi, thì lạy Chúa, xin ban Thánh Thần,
Đấng an ủi đến trong người này; xin ban cho người này thần trí khôn ngoan và
thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức. Xin ban
cho người này ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
- Amen.
Thụ nhân lên trước mặt chủ lễ,
người đỡ đầu đặt tay trên vai phải họ, chủ lễ nhúng đầu ngón tay cái vào dầu
thánh rồi ghi hình thánh giá trên trán thụ nhân mà nói:
(T) HÃY LÃNH NHẬN ẤN TÍN ƠN CHÚA
THÁNH THẦN
Thụ nhân: Amen.
- Bình an của Chúa ở cùng (T)
- Và ở cùng cha.
c/. CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ
(Bỏ kinh Tin kính, tiếp ngay Lời
nguyện Giáo dân, sau đó người Tân Tòng mang của lễ lên bàn thờ. Người Tân tòng, người
đỡ đầu, cha mẹ, vợ chồng và các người dạy giáo lý rước lễ hai hình: Mình và Máu
Chúa)
CHƯƠNG IV
NGỪOI LÃNH NHẬN BÍ TÍCH VÀ THỪA TÁC VIÊN
CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY
GLHT số 1246: "Tất cả và chỉ những người chưa chịu phép Rửa,
mới có khả năng lãnh nhận bí tích Rửa tôi"[19].
Như thế tất cả moị người là ai? Các nhà thần học Kinh Viện phân
biệt người lớn và trẻ nhỏ. Người lớn phải cần điều kiện nào không? ý thức hay
không ý thức?muốn hay không muốn? Còn trẻ em có thể rửa tội khi cha mẹ chúng
không đồng ý không? Các bào thai thì có rửa tội không?
I. Giáo
luật về Bí Tích Rửa Tội
Bí Tích Rửa Tội
Ðiều 849: Bí Tích Rửa Tội là cửa ngõ vào các Bí Tích. Sự
lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội cách thực sự hay ít ra bằng nguyện ước là điều cần
thiết cho phần rỗi. Bí Tích Rửa Tội giải thoát con người khỏi tội lỗi, tái sinh họ làm con Chúa và kết
nạp họ vào Giáo Hội, biến họ nên giống Chúa Kitô bằng ấn tích không thể xóa
nhòa. Bí Tích này chỉ được ban hữu hiệu bằng việc rửa bằng nước nguyên chất kèm
theo việc đọc đúng mô thức.
Chương I: Việc Cử Hành Bí Tích Rửa Tội
Ðiều 850: Phải ban Bí Tích Rửa Tội theo đúng nghi thức
trong các sách phụng vụ đã được phê chuẩn, trừ khi trong trường hợp nhu cầu khẩn
cấp, thì chỉ cần giữ những điều đòi buộc cho Bí Tích được hữu hiệu.
Ðiều 851: Việc cử hành Bí Tích Rửa Tội phải được chuẩn bị
thích đáng. Vì vậy:
1. người lớn muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, phải được nhận vào
lớp dự tòng và, tùy mức độ có thể, được hướng dẫn khai tâm Bí Tích qua nhiều
giai đoạn khác nhau; dựa theo đúng nghi thức khai tâm do Hội Ðồng Giám Mục đã
thích nghi cũng như các quy luật riêng do Hội Ðồng Giám Mục ban hành.
2. cha mẹ của nhi đồng sắp được nhận Bí Tích Rửa Tội, cũng như
những người sẽ lãnh trách nhiệm đỡ đầu, phải được giáo huấn đầy đủ về ý nghĩa của
Bí Tích này và về những bổn phận gắn liền với Bí Tích. Cha Sở, tự mình hay nhờ
người khác, phải chăm lo huấn luyện đầy đủ các phụ huynh bằng những bài huấn dụ
mục vụ, và kể cả bằng sự cầu nguyện chung, trong lúc hội họp nhiều gia đình và
bằng cách đi thăm viếng họ khi nào có thể.
Ðiều 852: (1) Những điều quy định trong khoản luật về Bí
Tích Rửa Tội người lớn, cũng phải được áp dụng cho tất cả những ai đã quá tuổi
nhi đồng và biết xử dụng trí khôn.
(2) Kể cả trong vấn đề liên can đến Bí Tích Rửa Tội, người thiếu
xử dụng trí khôn cũng được đồng hóa với nhi đồng.
Ðiều 853: Trừ trường hợp khẩn thiết, nước dùng khi ban Bí
Tích Rửa Tội buộc phải được làm phép theo các quy luật của sách phụng vụ.
Ðiều 854: Bí Tích Rửa Tội được cử hành hoặc bằng cách dìm
xuống nước, hoặc bằng cách đổ nước, tùy theo các quy luật của Hội Ðồng Giám Mục
đã định.
Ðiều 855: Cha mẹ, người đỡ đầu và Cha Sở phải lo liệu để đừng
đặt một tên không hợp với ý nghĩa Kitô giáo.
Ðiều 856: Mặc dầu có thể cử hành Bí Tích Rửa Tội vào bất cứ
ngày nào, tuy nhiên, thường nên cử hành vào ngày Chủ Nhật, hay nếu có thể, vào
đêm vọng Phục Sinh.
Ðiều 857: (1) Ngoài trường hợp cần thiết, nơi thích hợp để
Rửa Tội là nhà thờ hay nhà nguyện.
(2) Theo luật, người lớn phải chịu phép Rửa Tội tại nhà thờ
riêng của giáo xứ, nhi đồng tại nhà thờ xứ của cha mẹ, trừ khi có lý do chính
đáng khuyên nhủ cách khác.
Ðiều 858: (1) Mỗi nhà thờ giáo xứ phải có giếng rửa tội,
tuy vẫn duy trì quyền lợi hỗn nhập mà các nhà thờ khác đã thủ đắc.
(2) Ðể tiện lợi cho giáo dân, Bản Quyền sở tại, sau khi hội ý với
Cha Sở, có thể cho phép hay ra lệnh đặt giếng rửa tội trong nhà thờ hay trong
nhà nguyện khác nằm trong ranh giới của giáo xứ.
Ðiều 859: Nếu người chịu rửa tội, vì ở xa hay vì hoàn cảnh
khác, gặp bất tiện lớn nếu đi đến hay được chở đến nhà thờ xứ hoặc nhà thờ hay
nhà nguyện khác nói trong điều 858, triệt 2, thì có thể hay phải cử hành Bí
Tích Rửa Tội trong một nhà thờ hay một nhà nguyện khác gần hơn, hay tại một nơi
khác xứng đáng.
Ðiều 860: (1) Ngoài trường hợp cần thiết, không được cử
hành Bí Tích Rửa Tội trong các nhà tư, trừ khi được Bản Quyền sở tại cho phép
vì một lý do quan trọng.
(2) Nếu Giám Mục giáo phận không định thể khác, thì không được
cử hành Bí Tích Rửa Tội trong nhà thương, trừ trường hợp cần thiết hay có lý do
mục vụ khác đòi buộc.
Chương II: Thừa Tác Viên Bí Tích Rửa Tội
Ðiều 861: (1) Thừa tác viên thông thường của Bí Tích Rửa Tội
là Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, miễn là giữ quy định của điều 530, số 1.
(2) Khi thừa tác viên thông thường vắng mặt hay bị cản trở, một
giáo lý viên được Bản Quyền trao cho nhiệm vụ Rửa Tội sẽ cử hành Bí Tích Rửa Tội
cách hợp pháp. Trong trường hợp cần thiết thì bất cứ người nào, với một chủ ý
nghiêm chỉnh, cũng có thể cử hành. Các chủ chăn, đặc biệt Cha Sở, phải lo dạy
các tín hữu biết cách rửa tội cho đúng.
Ðiều 862: Ngoại trừ trường hợp cần thiết, không ai được cử
hành Bí Tích Rửa Tội trên lãnh thổ của người khác, dù rằng cho một người thuộc
quyền của mình, nếu không có phép hợp lệ.
Ðiều 863: Việc Rửa Tội cho người lớn - ít ra đã chẵn mười
bốn tuổi - nên được trình lên Giám Mục giáo phận để chính Ngài đích thân cử
hành nếu xét thấy thuận lợi.
Chương III: Những Người Lãnh Bí Tích Rửa Tội
Ðiều 864: Tất cả và chỉ những người chưa được rửa tội mới
có khả năng lãnh Bí Tích Rửa Tội.
Ðiều 865: (1) Ðể có thể được rửa tội, người lớn phải tỏ ý
muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, phải được giáo dục đầy đủ về các chân lý Ðức
Tin và các nghĩa vụ Kitô giáo, được thử luyện vào đời sống Kitô giáo qua thời
gian dự tòng; ngoài ra, phải khuyên nhủ họ thống hối về tội lỗi của mình.
(2) Trong trường hợp nguy tử, người lớn có thể được rửa tội khi
đã biết phần nào về các chân lý chính yếu của Ðức Tin, đã bày tỏ cách nào đó ý
muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và hứa sẽ tuân giữ các điều răn của đạo công
giáo.
Ðiều 866: Nếu không có lý do quan trọng cản trở, người lớn,
liền ngay sau khi đã được rửa tội, cần được lãnh Bí Tích Thêm Sức, tham dự lễ
Thánh Thể và rước lễ ngay đó.
Ðiều 867: (1) Cha mẹ có bổn phận lo cho con mình được rửa
tội ngay trong những tuần lễ đầu tiên. Vào dịp sớm nhất sau ngày sinh, hay kể cả
trước ngày sinh, cha mẹ hãy đến gặp Cha Sở để xin rửa tội cho con và xin được
chuẩn bị kỹ lưỡng về Bí Tích.
(2) Nếu hài nhi gặp cơn nguy tử, phải rửa tội cho nó ngay,
không chút trì hoãn.
Ðiều 868: (1) Ðể một nhi đồng được rửa tội cách hợp pháp,
cần thiết phải:
1. có sự đồng ý của cha mẹ, ít là của một trong hai, hoặc của
người thế quyền cha mẹ theo luật;
2. có hy vọng vững chắc rằng em bé sẽ được giáo dục trong đạo
công giáo. Nếu hoàn toàn không có hy vọng, thì phải hoãn việc rửa tội dựa theo
các quy định của luật địa phương, sau khi đã cho cha mẹ biết lý do.
(2) Trong cơn nguy tử, một nhi đồng con
của cha mẹ công giáo, và thậm chí không công giáo, có thể được rửa tội cách hợp
pháp, cho dù trái ý cha mẹ.
Ðiều 869: (1) Nếu hồ nghi không biết
một người đã được rửa tội hay chưa, hoặc Bí Tích Rửa Tội đã ban có hữu hiệu hay
không, và sự hồ nghi vẫn còn dù sau khi đã điều tra cặn kẽ, thì được ban Bí
Tích Rửa Tội với điều kiện.
(2) Những người đã được rửa tội trong một giáo đoàn không Công
Giáo, thì không cần rửa tội lại với điều kiện, trừ khi có lý do quan trọng hồ
nghi về sự hữu hiệu của Bí Tích sau khi đã điều tra chất liệu và công thức dùng
trong lúc ban Bí Tích Rửa Tội, cũng như đã lưu ý đến chủ ý của người trưởng
thành được rửa tội và của thừa tác viên cử hành Bí Tích.
(3) Trong những trường hợp ở triệt 1 và 2 trên đây, nếu có hoài
nghi về việc đã ban hoặc về sự hữu hiệu của Bí Tích Rửa Tội, thì chỉ cử hành lại
cho người lớn khi đã trình bày giáo lý Bí Tích, và cho đương sự hay cha mẹ, nếu
là nhi đồng, biết những lý do hoài nghi về việc hữu hiệu của Bí Tích Rửa Tội đã
cử hành trước đây.
Ðiều 870: Ðứa trẻ bị bỏ rơi hay vô thừa nhận phải được rửa
tội, trừ khi đã điều tra cẩn thận và biết chắc em đã được rửa tội rồi.
Ðiều 871: Bào thai bị sảy, nếu còn sống, thì phải được rửa
tội, tùy theo mức độ có thể được.
Chương IV: Người Ðỡ Ðầu
Ðiều 872: Trong mức độ có thể được, phải liệu cho người sắp
chịu Bí Tích Rửa Tội có một người đỡ đầu. Nhiệm vụ của người đỡ đầu là tham dự
vào việc khai tâm Kitô giáo của người lớn sắp rửa tội; còn đối với nhi đồng sắp
rửa tội, người đỡ đầu phải cùng với cha mẹ đem em nhỏ đến chịu rửa tội, rồi cộng
tác với cha mẹ giúp em bé đã được rửa tội sống đời sống Kitô giáo cách xứng
đáng và tận tụy chu toàn những bổn phận gắn liền với Bí Tích Rửa Tội.
Ðiều 873: Có thể chỉ nhận một cha đỡ đầu hoặc một mẹ đỡ đầu,
hay cả cha và mẹ đỡ đầu.
Ðiều 874: (1) Ðể được nhận giữ vai trò đỡ đầu, cần:
1. phải được chọn lựa bởi chính người sắp được rửa tội, hay cha
mẹ của đương sự hoặc người thế quyền cha mẹ; nếu không có cha mẹ và người thế
quyền thì Cha Sở hay thừa tác viên rửa tội sẽ chọn lựa. Người được chọn phải có
khả năng và chủ ý thi hành nhiệm vụ đỡ đầu;
2. đã được mười sáu tuổi trọn, trừ khi Giám Mục giáo phận ấn định
tuổi khác, hoặc Cha Sở hay thừa tác viên thấy có thể nhận một ngoại lệ vì lý do
chính đáng;
3. phải là người công giáo, đã chịu Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích
Mình Thánh, lại có đời sống xứng hợp với Ðức Tin và chức vụ sắp lãnh nhận;
4. không mắc một hình phạt giáo luật đã được tuyên kết và tuyên
bố hợp lệ;
5. không phải là cha hay mẹ của người được rửa tội.
(2) Người nào đã được rửa tội nhưng thuộc về một giáo đoàn
không Công Giáo, thì chỉ được nhận cùng với một người đỡ đầu Công Giáo, và với
tư cách chứng nhân của Bí Tích Rửa Tội mà thôi.
Chương V: Bằng Chứng Và Ghi Chú Về Việc Ban Bí Tích
Ðiều 875: Người ban Bí Tích Rửa Tội phải liệu để, nếu
không có người đỡ đầu, ít ra có một chứng nhân hầu có thể xác nhận việc ban
hành Bí Tích Rửa Tội.
Ðiều 876: Nếu không gây thiệt hại cho ai hết, thì lời xác
quyết của một chứng nhân đáng tin cậy hay lời thề của chính đương sự nếu họ
lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội vào tuổi trưởng thành, cũng đủ để chứng minh việc Bí
Tích đã được ban.
Ðiều 877: (1) Cha Sở nơi cử hành Bí Tích Rửa Tội phải cẩn
thận ghi ngay vào sổ Rửa Tội: tên của người lãnh Bí Tích Rửa Tội, của thừa tác
viên, của cha mẹ, của người đỡ đầu và nếu có, của cả người làm chứng; nơi và
ngày rửa tội, ngày và nơi sinh.
(2) Nếu là đứa con của người mẹ không có chồng, thì sẽ ghi tên
người mẹ vào sổ, khi có thể minh định công khai được mẫu hệ hay khi chính người
mẹ tự ý xin ghi tên mình vào qua một đơn viết hay trước mặt hai người chứng.
Tên của người cha cũng ghi vào sổ nếu phụ hệ được chứng minh do một văn kiện
công chứng nào đó, hoặc chính đương sự tuyên bố trước mặt Cha Sở và hai người
chứng. Trong những trường hợp khác, sẽ chỉ ghi tên trẻ được rửa tội mà không cần
nhắc đến tên của người cha hay của cha mẹ.
(3) Nếu là đứa con nuôi, thì phải ghi tên cha mẹ nuôi và cả cha
mẹ ruột theo quy tắc của các triệt 1 và 2, ít là khi đã ghi như vậy trong chứng
thư dân sự tại địa phương; tuy nhiên phải lưu ý đến các chỉ thị của Hội Ðồng
Giám Mục.
Ðiều 878: Nếu không phải Cha Sở hay người đại diện Cha Sở
ban Bí Tích Rửa Tội, thì thừa tác viên Bí Tích Rửa Tội, bất cứ là ai, phải báo
cho Cha Sở tại nơi cử hành Bí Tích Rửa Tội biết, để ngài ghi vào sổ Rửa Tội
theo điều 877, triệt 1.
II. RỬA TỘI CHO NGƯỜI LỚN
Khi nói về Bí Tích, các nhà Thần học Kinh Viện phân biệt việc cử
hành bí tích có thành sự hay không (valide)? Có trao ban cách hợp pháp và hữu hữu
hiệu hay không (licite)? Như vậy thành sự và hợp pháp là hai điểm cần lưu ý khi
ban phát bí tích. Để ban bí tích thành sự, cần người lãnh nhận phải có đủ lý
trí, suy xét và biết phân biệt điều gì là linh thánh, điều gì là không. Người
lãnh nhận phải có ý hướng (Intention) hay có ý chí, ý muốn lãnh nhận bí tích do
Hội Thánh trao ban. Điều kiện ý muốn này là tất yếu, vì nói lên sự cộng tác của
con người vào ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta xét những trường hợp sau:
- Bí tích Rửa Tội sẽ không thành
sự khi trao ban trong sự ép buộc hay bất ngờ, đi ngược lại ý muốn của người
lãnh nhận. Nếu yếu nhân tỏ sự đồng ý mặc dù có
trong tình trạng quá sợ hãi đi nữa, yếu nhân đó cũng lãnh nhận ấn tín rửa tội.
Đức Giáo Hoàng Innocentê III dạy như sau:
" Người bị ép buộc bằng bạo lực buộc phải nhận Bí Tích Rửa
Tội để tránh những tàn tệ này, cũng như một người lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội vì
ý xấu, họ lãnh nhận ấn tín bí tích, và vì đã muốn dưới điều kiện, chắc chắn là
đã muốn không trọn vẹn, người ấy buộc phải giữ đức tin Kitô giáo".(DS 781)
- Trường hợp bí tích Rửa Tội được ban cho một người đang ngủ
hay khi đã mất lý trí, thì việc thành sự của bí tich sẽ tùy thuộc vào ý muốn trước
đó của họ. Nếu như trước đó họ đã tỏ ý công khai muốn lãnh nhận bí tích thì bí
tích thành sự; ngược lại nếu như trước đó họ từ chối và vẫn giữ ý kiến như thế,
thì bí tích không thành. ĐGH Innocentê III có ý kiến:
" Về những người đang ngủ và những người không sử dụng được
lý trí, nếu như trước khi mất lý trí hay trước khi ngủ, họ luôn luôn luôn chóng
đối, và người ta thấy được sự chông đối này, cả trong tình trạng họ được rửa tội,
thì họ, thì họ không thể lãnh nhận ấn tín rửa tội được. Họ sẽ có nếu như trước
đó họ là dự tòng hay đã tỏ ý muốn được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội; vì thế Hội
Thánh cũng có thói quen rửa tội trong trường hợp khẩn thiết. Nghi thức bí tích
sẽ ghi dấu ấn tín, chỉ vì không gặp ngăn trở do việc chống đối của ý chí"
(DS 781).
- Trường hợp một người lãnh nhận bí tích Rửa Tội mà không có đức
tin, nhưng chỉ vì tò mò, họ sẽ lãnh nhận
ấn tín rửa tội nhưng không có ơn thánh, thánh Tôma có ý kiến như sau:
"Để có thể lãnh nhận ấn tín, thật sự không cần thiết đến đức
tin chân chính của người lãnh nhận cũng như kẻ ban, chỉ cần chu toàn các nghi
thức cần thiết cho bí tích. Chỉ vì Bí Tích không phải là việc công chính của
con người, cũng không phải là của người ban, nhưng là công việc của quyền năng
Thiên Chúa" ( S. theol, III, q.68.a.8)
Ở đây vấn đề đặt ra là, cần phải có một đức tin rõ ràng muốn
lãnh nhận bí tích hay chỉ là một đưc tin chung chung chỉ muốn những gì cần thiết
để được cứu độ? Cả hai ý kiến này đều có thể chấp nhận, nhưng ý kiến thứ nhất
được tôn trọng nhiều hơn: phải công khai nói lên ý muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Như thế đối với người lớn, để lãnh nhận Bí tích Rửa Tội cách hợp
pháp và hữu hiệu, thì nguyên chỉ có ý muốn lãnh nhận thôi sẽ không đủ điều kiện.
Cần phải có đức tin, đức cậy và nhất là sự sám hối về các tội đã phạm từ trước.
Thiếu một trong ba điều kiện này, sẽ ngăn cản người được rửa tội không lãnh nhận
được hồng ân thánh hóa và sự tha thứ tội lỗi. Theo thánh Tôma họ cần một sự sám
hối nội tâm trước mặt Thiên Chúa: " một sự xưng thú nội tâm với Thiên
Chúa, và cả việc xưng thú đại cương bên ngoài, cũng đủ để giúp cho người sắp
lãnh nhận bí tích Rửa Tội bước vào con đường ngay thẳng và lãnh nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa. Và như chúng
tôi đã nói, không cần phải xưng thú tỉ mĩ bên ngoài"
(S.theol.III,q.68.6)
+ Như thế để lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy hợp pháp và hữu hiệu,
người tân tòng cần có hiếu biết, lý trí sáng suốt và tự do đón nhận đạo lý công
giáo cũng như lòng thành tâm ước muốn trở nên con Chúa; đồng thời có thời gian
thanh luyện giúp họ sám hối thật tâm những tội lỗi đã phạm trước đây. Nếu được
giúp họ có thể thực hiện việc đền bù những thiệt hại do tội mình gây nên cho những
người thân cận, tỏ dấu hối hận vì những gương xấu mình gây ra, phải dứt khoát với
con đường tội lỗi mà mình đã đi trong quá khứ để làm một bước ngoặc mới trong
hành trình tiến vào đời sống thiêng liêng.
III. RỬA TỘI CHO TRẺ NHỎ
1.
Những ý kiến về việc rửa tội trẻ em vào thế kỷ XI và XII
- Các lạc giáo thế kỷ XI, XII như Vaudois, Cathares, Albigeois
và nhất là nhóm Petrobrusiens, lấy theo tên của trưởng nhóm là Pierre de Bruys
đều chống lại việc rửa tội cho trẻ em. Vì họ dựa vào câu Tin mừng Mc:" Ai
tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ" (mc 16,16), nên cho rằng đức tin và
phép rửa cũng cần cho em bé để được cứu độ; thế nhưng các em bé không đủ khả
năng để tin và tỏ rõ đức tin nên rửa tội cho các em bé là vô ích.
- Nhiều nhà thần học lên tiếng phản đối ý kiến trên; trong số
đó có Đan Viện Phụ của Cluny là Pierre Đáng Kính. Ngài cho rằng những suy nghĩ
như thế thật vô lý. Ngài dựa vào truyền thống Hội Thánh để cho thấy thực hành rửa
tội cho các em đã có từ xưa và phổ biến trong Giáo Hội Tây Phương lẫn Đông
Phương. Ngài cho thấy câu MC 16,16 là dành cho người lớn, còn về các em bé đức
tin của Hội Thánh có thể thay thế cho đức tin của các em. Dù các em không có tội
cá nhân nhưng bị ràng buộc trong tội nguyên tổ của Ađam, các em cũng cần được Đức
Kitô cứu độ, dù các em không sử dụng được tự do của mình.
- Đức Giáo Hoàng Innocentê kết án nhóm Vaudois ngày 18/12/1208:
" Chúng tôi công nhận việc rửa tội cho trẻ em, và nếu các
em chết sau khi được rửa tội, trước khi phạm bất cử tội nào, chúng tôi tuyên
xưng và tin rằng các em được cứu độ. Và chúng tôi tin rằng mọi tội lỗi đều được
tẩy sạch trong bí tích Rủa Tội, cả tội nguyên tổ lẫn tội mình làm" (DS
794).
2. Tầm
quan trọng của việc rửa tội trẻ nhỏ
1. Với danh từ trẻ nhỏ (parvulorum) hoặc trẻ thơ (infantium) hiểu
là những trẻ vì chưa tới tuổi dùng trí khôn, nên không có thể ttuyên xưng đức
tin của mình.
2. Hội Thánh, vì đã được ban quyền thừa sai đi rao giảng Phúc
Âm và rửa tội, nên ngay từ những thế kỷ đầu, đã rửa tội không những cho người lớn
tuổi mà cho cả những trẻ nhỏ nữa. Vì căn cứ vào Lời Chúa: "Ai không tái
sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không thể vào Nước Trời" (Ga 3,5). Hội
Thánh luôn luôn cho biết là không nên để trẻ nhỏ không được chịu phép rửa tội,
vì lý do đương nhiên là chúng cần được rửa tội trong đức tin của chính Hội
Thánh, đức tin mà cha mẹ, vú bõ (cha mẹ đỡ đầu) của chúng và những người khác
hiện diện tuyên xưng. Vì những người này vừa đại diện cho toàn thể cộng đoàn
các thánh và các tín hữu, tức là Mẹ Hội Thánh, người Mẹ toàn diện đã sinh hạ mọi
người và từng người.
3. Nhưng để kiện toàn chân lý của Bí tích, trẻ nhỏ phải được
giáo dục trong đức tin mà chúng ta đã nhận được khi chịu phép rửa tội: Nền tảng
của việc này là chính Bí Tích mà chúng ta đã lãnh nhận. Việc giáo dục Kitô giáo
mà các trẻ nhỏ có quyền được hấp thụ không có mục đích nào hơn là dẫn chúng dần
dần đến việc học biết Thánh Ý Chúa trong Đức Kitô, để cuối cùng chính chúng có
thể tuyên nhận đức tin mà trong đức tin đó, chúng đã được chịu phép rửa tội.
3. Nghi Thức Rửa Tội Cho Trẻ Nhỏ (Ordo Baptismi Parvulorum (1969) )
1. Nghi thức đón tiếp
Mọi người tề tựu ở cửa chính nhà thờ hay một nơi nào đó trong
nhà thờ nhưng không phải cung thánh hay giếng tửa tội. Linh mục hay phó tế mặc
alba hoặc áo các phép với dây stola, tiến đến chào mọi người và ngỏ một vài lời
nói lên niềm vui của buổi cử hành bí tích . Sau đó ngài đối thoại với cha mẹ trẻ
nhỏ như sau:
Chủ sự: Ông bà (anh chị) đặt tên cho (các) cháu là gì?
Cha mẹ (hoặc từng cha mẹ, nếu có nhiều trẻ nhỏ): Thưa tên
cháu là…
Chủ sự: Ông bà (anh chị) xin Hội Thánh cho cháu điều gì?
Tất cả các cha mẹ đáp một lần: Thưa xin phép Thánh tẩy
Chủ sự: Khi xin phép Thánh tẩy cho con cái, ông bà
(anh chị) lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái trong đức tin, để các cháu
tuân giữ các giới răn là mến Chúa yêu người, như Chúa Kitô đã dạy chúng ta, ông
bà có ý thức điều đó không?
Tất cả các cha mẹ đáp: Thưa ý thức
Chủ sự hỏi những người đỡ đầu: (Các) ông bà (anh chị) đỡ đầu
có sẵn sàng giúp đỡ cha mẹ (các) cháu nhỏ này thi hành nhiệm vụ không?
Tất cả những người đỡ đầu đáp: Thưa sẵn sàng
Chủ sự nói với trẻ nhỏ sắp chịu Thánh tẩy: (Các) con thân
mến cộng đoàn kitô hữu rất hoan hỷ đón nhận (các) con. Nhân danh cộng đoàn, cha
(thầy) ghi dấu thánh giá cho (các) con, kế đó cha mẹ và người đỡ đầu cũng ghi dấu
Chúa Kitô Cứu Thế cho (các) con.
Sau lời ngỏ trên, chủ sự thinh lặng ghi dấu thánh giá trên trán
trẻ nhỏ, kế đó cha mẹ và nếu tiện cả người đỡ đầu cũng thinh lặng ghi dấu thánh
giá trên trán cho các cháu.
Ghi dấu thánh giá xong, chủ sự mời mọi người tiến đến cung thánh hay một chỗ
thuận tiện và trang trọng nào đó trong nhà thờ, tại đây sẽ cử hành Lời Chúa.
2. Cử hành lời Chúa
Khi đến nơi đã định, chủ sự đọc lời Chúa như sau:
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu
Khi ấy Chúa Giêsu tiến lại nói với các môn đệ rằng: “Mọi quyền năng
trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân,
làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế”.
Đó là Lời Chúa.
Đọc Lời Chúa xong, chủ sự có thể giảng vắn tắt, kế đó mọi người
đọc lời nguyện chung sau đây:
3. Lời nguyện chung:
Chủ sự: Anh chị em thân mến,Đức Giêsu Kitô đã chết và sống
lại để ban cho chúng ta sự sống mới của Người. Trong tâm tình tin tưởng cậy
trông chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:
Chủ sự hay một xướng viên:
- Nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô, xin
Chúa đoái thương dùng bí tích Thánh tẩy để tái sinh và thâu nhận (những) trẻ nhỏ
này vào Hội Thánh Chúa.
Mọi người đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con
- Nhờ ơn tái sinh trong các bí tích gia nhập đạo, xin Chúa cho
những trẻ nhỏ này, trở nên môn đệ trung tín và chứng nhân của Tin Mừng giữa
lòng thế giới. Đáp
- Nhờ những hồng ân của Chúa nâng đỡ, xin Chúa cho cha mẹ
và những người đỡ đầu luôn biết sống gương mẫu, và hằng chăm lo giáo dục đức
tin cho con cái. Đáp
- Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, xin Chúa làm cho ơn
bí tích Thánh tẩy sinh hoa quả dồi dào trong đời sống chúng con. Đáp
- Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời – Cầu cho chúng con
- Thánh Giuse – Cầu cho chúng con
- Thánh Gioan Tẩy giả - Cầu cho chúng con
- Thánh Phêrô và thánh Phaolô- Cầu cho chúng con
(Có thể thêm tên các thánh bổn mạng của các trẻ nhỏ sắp lãnh nhận
Thánh tẩy)
- Các thánh Nam Nữ của Thiên Chúa – Cầu cho chúng con
4. Lời nguyện trừ tà
Đọc lời nguyện chung xong, chủ sự đọc lời nguyện trừ tà sau đây
Chủ sự: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,
Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian để trục xuất quyền lực của Ác thần Satan ra
khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào
ánh sáng kỳ diệu của nước Chúa.
Chúng con nài xin Chúa làm cho (những) trẻ nhỏ này, sau khi khỏi
tội nguyên tổ, được Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn và được trở nên đền thờ của
Chúa uy linh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Liền sau đó chủ sự sẽ đọc lời nguyện dự tòng.
Còn việc xức dầu dự tòng được tuỳ ý thực hiện theo tập quán của
mỗi nơi:
- Nếu không xức dầu dự tòng thì đọc như sau: xin Chúa Kitô Cứu Thế
ban sức mạnh của Người cho (các) con, người hằng sống hiển trị đời đời.
- Nếu có xức dầu dự tòng thì đọc: Xin Chúa Kitô Cứu
Thế ban sức mạnh của Người cho (các) con. Để biểu hiện ơn ấy, cha xức dầu cứu rỗi
cho (các) con trong cũng một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng hằng sống hiển trị đời
đời.
Đọc lời nguyện xong, chủ sự xức dầu dự tòng trên ngực mỗi trẻ
nhỏ. Nếu có linh mục hay phó tế giúp và khi có đông trẻ nhỏ, các Ngài cũng có
thể phụ xức dầu với vị chủ sự.
5. Cử hành Thánh Tẩy
Sau lời nguyện và xức dầu dự tòng, nếu có giếng thánh tẩy chủ sự
và mọi người đến đó, bằng không, chủ sự làm phép nước tại cung thánh hoặc nơi
thuận tiện, rồi cử hành Thánh tẩy như sau.
Chủ sự: Thiên Chúa dùng bí tích Thánh tẩy mà ban sự sống của
Người cho những kẻ tin. Vì thế trong niềm tin tưởng chúng ta xin Người cho (các)
trẻ nhỏ này được tái sinh bởi nước và Thánh Thần.
Chủ sự hướng về phía đặt vò nước hay bình nước:
5.1. Nếu nước chưa làm phép thì Lm. Chủ sự đọc:
+ Lạy Chúa là Cha chí thánh, từ mạch nước Thánh tẩy Chúa đã cho
sự sống mới của Con Chúa tuôn trào lên trong chúng con.
- Mọi người đáp sau mỗi câu tung hô của chủ sự: Chúng con
xin chúc tụng Chúa
+ Bởi nước và Thánh Thần, Chúa đoái thương quy tụ thành một dân
riêng tất cả những đã chịu Thánh tẩy trong Con Chúa là Đức Giêsu
Kitô. Đáp…
+ Chúa ban Thánh Thần của tình yêu vào lòng chúng con, để Người
giải thoát, ban bình an và biến đổi chúng con nên sứ giả Tin Mừng của
Chúa. Đáp…
Kế tiếp Lm. Chủ sự đọc lời nguyện làm phép nước sau đây:
Lời nguyện là phép nước
Lạy Chúa, Chúa đã gọi các tôi tớ Chúa đến lãnh ơn tái sinh
trong đức tin của Hội Thánh. Xin đoái thương chúc lành + cho nước này để thanh
tầy các tôi tớ nam nữ của Chúa, để họ được sống muôn đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa
chúng con.
5.2.
Nếu và Mùa Phục sinh đã có nước được làm phép rồi chủ sự đọc lời nguyện
sau đây:
Lạy Chúa, Chúa đã gọi các tôi tớ Chúa đến chịu bí tích Thánh tẩy trong đức
tin của Hội Thánh. Nhờ mầu nhiệm nước thánh này, xin Chúa chúc lành bởi Thánh
Thần để họ được sống muôn đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Sau lời nguyện làm phép nước, chủ sự mời gọi mọi người
tuyên xưng đức tin.
Chủ sự: Anh chị em thân mến, là những bậc làm cha mẹ và người đỡ đầu, những trẻ
nhỏ anh chị em đem đến sắp lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Do lòng Chúa yêu mến,
các em sẽ được sự sống mới bởi nước và Chúa Thánh Thần.
Anh chị em hãy để tâm giáo dục các em trong đức tin, để sự sống
của Chúa khỏi thiệt thòi vì ảnh hưởng tội lỗi, như ngày càng nảy nở trong các
em.
Vậy nếu nhờ đức tin hướng dẫn, anh chị em sẵn sàng đảm nhận bổn
phận ấy, thì anh chị em hãy nhớ lại bí tích Thánh tẩy của mình mà từ bỏ tội lỗi,
tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô, như Hội Thánh tin, chính trong đức tin này mà
các em được lãnh bí tích Thánh tẩy.
Từ bỏ tội lỗi
Chủ sự: Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị
em có từ bỏ tội lỗi không? - Mọi người: Thưa từ bỏ
Chủ sự: Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, anh chị em có từ bỏ những
quyến rũ bất chính không? - Mọi người: Thưa từ bỏ
Chủ sự: Anh chị em có từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra và cầm đầu
tội lỗi không?
- Mọi người: Thưa từ bỏ
Tuyên xưng đức tin
+ Chủ sự: Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn
năng, Đấng tạo thành trời đất không?
Mọi người: Thưa tin
+ Chủ sự: anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, con Một
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai
táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha không?
Mọi người: Thưa tin
+ Chủ sự: Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin
Hội Thánh công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại
và sự sống vĩnh cửu không?
Mọi người: Thưa tin
+ Chủ sự: Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Hội
Thánh, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy trong Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta.
Mọi người: Amen
+ Chủ sự: Vậy ông bà (anh chị) có muốn cho (các) cháu được
chịu Thánh tẩy trong đức tin của Hội Thánh mà tất cả chúng tôi vừa tuyên xưng với
ông bà (anh chị) không?
Cha mẹ và người đỡ đầu: Thưa muốn
+ Rửa tội
Tuyên xưng đức tin xong, chủ sự đổ nước cho từng trẻ nhỏ với
công thức sau đây:
T……….CHA RỬA CON, NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN
Nếu có đông trẻ nhỏ, và có sẵn linh mục hay phó tế phụ giúp, thì các ngài có thể
phân chia và đổ nước cho từng trẻ nhỏ với công thức trên. Người đỡ đầu đặt tay
phải trên vai người tân tòng hoặc giữ đầu đứa bé.
Khi đã đổ nước xong, sang phần diễn nghĩa, chủ sự đọc lời nguyện
trước khi xức dầu thánh như sau:
Xức Dầu Thánh Christma
Chủ sự: Thiên Chúa toàn năng là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, đã giải thoát (các) con khỏi tội và tái sinh (các) con bởi nước và
Chúa Thánh Thần, chính Người xức dầu cứu độ cho (các) con, để sau khi nhập đoàn
với dân Người, (các) con mãi mãi làm chi thể của Đức Kitô là tư tế, tiên tri và
vương đế cõi sống đời đời.
Tất cả mọi người: Amen
Rồi chủ sự thinh lặng xức dầu thánh (SC) lên đỉnh đầu mỗi trẻ
nhỏ.
Mặc Áo Trắng
Sau đó trao áo trắng, chủ sự đọc: (Các) con đã trở nên tạo
vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của
(các) con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, (các) con hãy
mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.
Đọc lời nguyện xong, chủ sự trao áo trắng cho từng trẻ nhỏ, trao
xong, trao nến.
Trao nến sáng
Chủ sự đưa nến cháy sáng cho từng cha mẹ hoặc người đỡ
dầu và đọc chung một lần:
Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô. Anh chị em là những bậc làm
cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức
là lo lắng cho (các) trẻ nhỏ này đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như
con cái sự sáng và bền vững trong đức tin. Nhờ đó khi Chúa đến, chúng được ra
nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời.
Kết thúc
Nghi thức kết thúc bằng kinh lạy Cha và phép lành như sau:
1. Công thức 1:
Chủ sự: Anh chị em thân mến, (các) trẻ nhỏ này đã được tái sinh
và trở nên con Thiên Chúa qua bí tích Thánh tẩy. Giờ đây trong tinh thần nghĩa
tử chúng ta cùng dâng lên Chúa Cha lời kinh mà Chúa Giêsu đã dạy tất cả chúng
ta:
Mọi người cùng đọc: Lạy Cha…
Chủ sự ban phép lành: Anh chị em thân mến, chúng tôi phó thác
trao anh chị em vào tay Thiên Chúa là Cha toàn năng cùng Con Một Ngài và Chúa
Thánh Thần. Xin Người ban muôn ơn cho anh chị em, gìn giữ đời sống anh chị em,
để anh chị em và cả chúng tôi nữa bước đi trong ánh sáng đức tin và đạt đến hạnh
phúc Người đã hứa. Và xin Thiên Chúa toàn năng là Cha và Con + và Thánh Thần
ban phúc lành cho anh chị em.
Mọi người: Amen
Chủ sự: Chúc anh chị em ra về bình an
Mọi người: Tạ ơn Chúa (có thể hát một bài tạ ơn hoặc bài hát về
Đức Mẹ)
2. Công thức 2:
+ Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ
phép Rửa Tội, các em này được tái sinh, các em được gọi và thực sự là con Thiên
Chúa. Trong phép Thêm Sức, các em sẽ được đầy tràn Chúa Thánh Thần. Các em sẽ
tiến tới bàn thờ Chúa tham dự bàn tiệc của lễ tế Người, và ở giữa Hội Thánh,
các em sẽ gọi Thiên Chúa là Cha. Giờ đây, nhân danh các em và trong tinh thần
nghĩa tử mà tất cả chúng ta đã được, chúng ta cùng nhau cầu nguyện như Chúa
Kitô đã dạy chúng ta.
Mọi người cùng đọc: Lạy Cha …
+ Chủ tế: Thiên Chúa toàn năng đã
nhờ Con Ngài sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria mà làm cho các bà mẹ Công Giáo hân
hoan; vì hy vọng vào đời sống bất diệt đã bừng lên trong con cái. Xin Chúa
thương ban phúc lành cho (các) bà mẹ này. (Các) bà tạ ơn Chúa vì được Chúa cho
sinh con, xin cho (các) bà cùng với con mình cảm tạ Chúa luôn mãi trong Ðức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả: Amen.
+ Chủ tế: Xin Thiên Chúa toàn
năng là Ðấng ban sự sống trần gian và Thiên Quốc, ban phúc lành cho (các) người
cha của (những) trẻ nhỏ này. Xin cho (các) ông cùng với bạn mình, trở thành những
người trước tiên, dùng lời nói và gương lành, làm chứng tá Ðức Tin cho con cái,
trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả: Amen.
+ Chủ tế: Xin Thiên Chúa toàn
năng, Ðấng đã tái sinh chúng ta trong đời sống vĩnh cửu bởi nước Chúa Thánh Thần,
rộng tay ban phúc lành cho các tín hữu của Người đây, để mọi nơi, mọi lúc, họ
là phần tử sống động của dân Người. Xin ban bình an của Người cho tất cả những
người có mặt nơi đây, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả: Amen. Chủ tế:
Xin Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha và Chúa Con X và Chúa Thánh Thần ban
phúc lành cho anh chị em. Tất cả: Amen.
4. Đức
tin và Bí Tích Thánh Tẩy
- GLHT 1253: Bí Tích Rửa Tội là bí tích của đức tin[20].
Đức tin mang chiều kích cộng đoàn. Vì thế mỗi Kitô hữu chỉ có thể tin trong đức
tin của Hội Thánh. Đức tin cần phải có để chịu phép rửa chưa phải là đức tin
hoàn hảo và trưởng thành, nhưng là một khởi đầu cần tăng trưởng. Hội Thánh hỏi
người dự tòng hoặc người đỡ đầu: Con đến xin gì cùng Hội Thánh? Và họ trả lời
"Con xin đức tin".
+ GLHT 1254: Đức tin của
người dự tòng cũng như trẻ em cần phải được tăng trưởng sau khi lãnh nhận bí
tích rửa tội. Vì vậy hàng năm, trong đêm canh thức Vượt Qua Hội Thánh cử hành
việc lặp lại lời hứa khi lãnh bí tích rửa tội.
+ GLHT 1255: Để ân sủng của bí tích Rửa Tội được triển nở. Cha
mẹ và người đỡ đầu có một vị trí quan trọng trợ giúp người dự tòng cũng như các
trẻ em lớn lên trong đời sống đức tin.
- Họ phải là những tín hữu kiên vững trong đức tin.
- Có khả năng giúp đỡ và đồng hành với người con thiêng liêng
trong đời sống đức tin.
- Nhiệm vụ của cha mẹ đỡ đầu thực sự là một chức vụ chính thức
trong Hội Thánh.
5. Thừa
tác viên Bí Tích Thánh Tẩy
- Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám mục,
Linh mục và Phó tế[21].
(GLHT 1256)
- Trong trường hợp khẩn cấp thì bất cứ người Kitô hữu nào đều
có thể cử hành Phép Rửa[22],
kể cả người chưa chịu Phép Rửa, tức người ngoại giáo, mà có ý hướng cần thiết,
nghĩa là: muốn làm điều Hội Thánh làm khi ban phép Rửa bằng cách sử dụng công
thức Rủa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.
- Trường hợp nguy tử như sảy thai, sinh non thiếu tháng mà cảm
thấy em bé khó có thể sống được người mẹ hoặc người khác dùng miếng bông gòn nhỏ
nước trên thai nhi và đọc "T. Ta rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
- Trường hợp người lớn muốn gia nhập đạo trong cơn nguy tử, thừa
tác viên là Linh mục ban các bí tích cùng một lúc. Trước hết là dọn mình cho yếu
nhân ăn năn tội, từ bỏ tội lỗi, tuyên xưng đức tin và Rửa tội. Tiếp đến là ban
Bí Tích Thêm sức, và sau cùng cho yếu nhân chịu Mình Thánh Chúa[25].
6. Sự
cần thiết của Bí Tích Thánh Tẩy
+ Vì thế Hội Thánh luôn ý thức sứ mệnh đã lãnh nhận nơi Chúa là
phải làm cho tất cả những ai có thể lãnh nhận bí tích này được sinh ra bởi nước
và Chúa Thánh Thần.
+ Có những người chịu chết mà chưa chịu phép Rửa thì sao? Có
hai trường hợp
1. Những người chịu chết vì đức tin nghĩa là họ có lòng tin
Chúa mà chịu chết khi chưa chịu phép Rửa, thì họ đã được tẩy rửa bàng cái chết
của họ vì Đức Kitô và với Đức Kitô nghĩa là tẩy rửa bàng máu. Như vậy vẫn
mang lại hiệu quả của Bí tích Rửa tội là được cứu độ[28].
2. Trường hợp thứ hai những người dự tòng có lòng ước ao được
gia nhập đạo nhưng bị chết trước khi được Rửa Tội. Qua lòng ước ao và lòng sám
hối thật tâm yêu mến Chúa và muốn trở nên con Chúa thì họ cũng được ơn cứu độ,
nghĩa là được Rửa Tội bằng lòng ước muốn hay bằng lửa[29].
+ Có những người không biết đạo Chúa, chưa biết Tin Mừng của Đức
Giêsu Kitô, cũng không biết Hội Thánh của Người, nhưng họ tìm kiếm chân lý và
thực thi ý muốn của Thiên Chúa theo như họ hiếu biết, nghĩa là theo lương tâm
ăn ở ngay lành thì họ có thể được cứu độ. Vì giả thiết rằng những người đó hẳn
đã minh nhiên khao khát lãnh nhận bí tích Rửa Tội, nếu họ đã biết đến sự cần
thiết cảu bí tích này[30].
+ Về các trẻ em chết mà chưa được rửa tội thì sao? Hội Thánh
phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Chúa muốn cho mọi người được cứu
độ, cũng như lòng thương mến của Chúa Giêsu đối các các trẻ em (Mt 10,14).
Trong phụng vụ có nghi lễ an táng dành cho trẻ em chưa rửa tội hoặc đã rửa tội[31].
Điều đó cho phép chúng ta hy vọng rằng có một con đường cứu dộ dành cho trẻ em
chết mà chưa được cứu độ[32].
CHƯƠNG V
HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY
Hai hiệu quả chính là: Thanh tẩy tội lỗi và tái sinh ta trong
Chúa Thánh Thần[33].
Công Đồng Florence xác nhận: "Vị trí đầu tiên giữa các bí tích là Bí
tích Rửa tội, là ngưỡng cửa bước vào đời sống siêu nhiên (vitae spiritualis
ianua); nhờ đó chúng ta trở thành chi thể của Đức Kitô và của Hội Thánh. Và
cũng như vì người đầu tiên mà cái chết đã đi vào trong tất cả chúng ta, nếu như
chúng ta không được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, như Chúa đã nói, chúng ta
không thể vào Nước Trời (x. Ga 3,5)" (DS 1314).
Giáo luật ngày hôm nay cung định nghĩa: :" Bí tích Rửa
Tội là cửa ngỏ vào các bí tích khác" (Gl 849). Công đồng Vaticanô II cũng
xác nhận: "Các tín hữu tháp nhập vào Giáo Hội bởi phép Rửa, và nhờ ấn
tích, họ được đề cử thi hành việc phụng tự Kitô giáo và, được tái sinh làm con
Thiên Chúa, họ có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ lãnh nhận
từ Thiên Chúa qua Giáo Hội" (LG 11).
Theo sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo: Bí tích Rửa Tội tha thứ
mọi tội lỗi, tái sinh chúng ta trở thành thụ tạo mới, được tháp nhập vào Thân
Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, làm cho ta hiệp nhất với các Kitô Hữu và ghi vào
linh hồn ta một Dấu Ấn thiêng liêng không hề tẩy xóa. Chúng ta cùng tìm hiểu dưới
đây.
1. Ban ơn tha tội
- Bí tích Thánh Tẩy tha hết mọi tội lỗi: Tội tổ tông, tội mình
làm, và các hình phạt do tội. Bí tích Rửa tội là cửa dẫn vào sự sống và Nước Trời.
Đó là Bí Tích đầu tiên của luật mới mà Chúa Kitô hiến cho nhân loại để được sống
đời đời. Đó cũng là Bí Tích Người đã trao cho Hội Thánh cùng với Tin Mừng khi
Người tuyền cho các Tông Đồ "Anh em hãy đi dạy dỗ cho muôn dân, rửa tội
cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19). Vì thế nơi những
người đã được tái sinh không còn gì ngăn cản họ bước vào Nước Thiên Chúa dù là
tội của Ađam, dù là tội của bản thân, dù là những hậu quả của tội, mà nghiêm trọng
nhất là phải xa lìa Thiên Chúa[34].
- Mặc dầu bí tích Rửa Tội xóa mọi tội lỗi của con người,
ban ơn cứu độ cho con người. Tuy vậy những hậu quả tạm thời của tội vẫn
còn tồn tại: như đau khổ, bệnh tật, sự chết, sự mỏng dòn, yếu đuối, những dục vọng
(sự hướng chiều về tội). Vì con người
còn sống trên trần gian, vì thế cần phải nổ lực chiến đấu với tội để đi vào Nước
Trời. Công đồng Florentinô:" Dục vọng được để lại cho chúng ta chiến đấu. Dục
vọng không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại
nó nhờ ân sủng của Ðức Ki-tô. Hơn nữa, "không đoạt giải nếu không thi đấu
theo luật lệ"[35].
(2 Tm 2, 5) (x. CÐ Trentô: DS 1515).
2. Làm cho ta trở nên một Thụ tạo mới[36]
+ Bí tích Rửa Tội không những xóa sạch mọi tội lỗi mà còn làm
cho ta trở nên một "thụ tạo mới". Thánh Phaolô cho thấy:"Cho
nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã
có đây rồi." (2Cr 5, 17).
+ Thành nghĩa tử của Thiên Chúa. "Nhưng khi thời gian tới
hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và
sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận
được ơn làm nghĩa tử." (Gl 4, 5-7).
+ Được thông phần bản tính Thiên Chúa. "Tôi là Si-mê-ôn
Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những người, nhờ sự
công chính của Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng
đã lãnh nhận một đức tin quý giá như chúng tôi. Chúc anh em được đầy tràn
ân sủng và bình an, nhờ được biết Thiên Chúa và Đức Giê-su, Chúa chúng ta. Thật
vậy, Đức Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì
giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã
dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. Nhờ vinh quang
và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại
Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã
thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian". (2Pr, 1-4).
+ Thành chi thể của Đức Kitô và đồng thừa tự với Người. "Vậy
đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng
thừa kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng
được hưởng vinh quang với Người." (Rm 8,17).
+ Thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
"Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần
sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban
cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả
giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác
anh em." (1Cr 6,19).
+ Vì phép Rửa kêu cầu và nhân
Danh Ba Ngôi, nên Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người chịu phép Rửa ơn Thánh hóa,
ơn công chính hóa[37]:
- Làm cho người đó có khả năng
tin vào Thiên Chúa, trông cậy Ngài, yêu mến Ngài nhờ các nhân đức đối thần: Tin
- Cậy - Mến
- Làm cho người đó có khả
năng sống và hành động theo sự tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân
của Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan-Hiểu biết-Thông minh-Biết lo liệu-Sức mạnh-Đạo
đức-Kính sợ Thiên Chúa.
- Làm cho người đó tăng trưởng
trong điều thiện hảo nhờ các nhân đức luân lý: Khôn ngoan - Công bình -
Dũng cảm - Tiết độ.
3. Tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh
- Bí tích Rửa tội làm cho chúng ta được tháp nhập vào Hội Thánh
chính là thân thể mầu nhiệm của Đức kitô. Làm Con Thiên Chúa, chúng ta cũng là
con của Hội Thánh, ở trong lòng Hội Thánh mà Hội Thánh chính là Dân Mới được
Chúa Giêsu thiết lập, quy tụ và cứu độ bằng cái chết và sự Phục sinh của Ngài.
Dân Mới này được sinh ra từ giếng nước Rửa Tội vượt mọi ranh giới tự nhiên hoặc
nhân bản về chúng tộc, văn hóa, giới tính, ngôn ngữ để làm thành một Dân Thiên
Chúa, Dân của Giáo Ước Mới[38]:
"Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do,
chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.
Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất." (1Cr 12, 13).
- Bí tích Thánh Tẩy làm cho họ được tham dự vào ba chức năng:
Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Chúa Kitô, trở nên viên đá sống động để xây dựng
ngôi đền thờ thiêng liêng[39].
"Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương
giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của
Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền".
(1Pr 2, 9). (Số 1268)
- Bí tích Thánh Tẩy làm cho họ được tham dự vào chức tư tế cộng
đồng của các tín hữu.
- Những người đã chịu phép Rửa trở nên phần tử của Hội Thánh.
Vì Thế họ được mời gọi để phục tùng lẫn nhau và phục vụ người khác trong sự hiệp
thông của Hội Thánh; được mời gọi "vâng lời và phục tùng " các vị
lãnh đạo của Hội Thánh[40]
với lòng kính trọng và quý mến. Bí tích Rửa tội còn là nguồn mạch của các trách
nhiệm và bổn phận[41]:
+ Người chịu phép Rửa được hưởng các quyền lợi trong lòng Giáo
Hội: Được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, được
nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng khác của Hội Thánh.
+ Những người chịu phép Rửa cũng có bổn phận tuyên xưng đức tin
trước mặt mọi người, đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua lòng Hội Thánh.
Cũng như tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của dân Thiên Chúa.
4. Hiệp thông với các tín hữu khác
Những người chịu phép Rửa Tội được hiệp thông với các Kitô hữu
khác[42].
Vì đã được công chính hóa nhờ đức tin khi chịu phép rửa, những người đó đã được
tháp nhập vào Đức Kitô vì thế họ được mang danh Kitô hữu và được các người con
của Hội Thánh đón nhận là anh em trong Chúa. Như thế Bí tích Rửa Tội là mối
dây bí tích liên kết cách chặt chẽ sự hợp nhất giữa tất cả những người tái sinh
nhờ bí tích đó[43].
5. Bí tích Thánh Tẩy khắc ghi một Ấn tín không thể xóa nhòa
Theo sách GLHT:
1272
Được nhập vào Thân Thể Chúa
Kitô nhờ phép Rửa tội, người Kitô hữu trở nên đồng hình với Chúa Kitô( xem Rm
8,29) Phép Rửa tội in một dấu ấn thiêng liêng không thể nào tẩy xoá (character)
trên người Kitô hữu, đánh dấu sự thuộc về Chúa Kitô. Dấu ấn này không bị xoá
nhoà bởi bất cứ tội lỗi nào, cho dù tội lỗi ngăn cản không cho phép Rửa tội
sinh hoa trái của ơn cứu độ ( xem DS. 1609-1619). Được ban một lần là đủ, phép
Rửa tội không thể được ban lại lần thứ hai.
1273
Được nhập vào Giáo Hội nhờ
phép Rửa tội, các tín hữu đã nhận được dấu ấn của bí tích, thánh hiến họ cho việc
phụng tự Kitô giáo( xem LG 11) Dấu ấn của phép Rửa tội khiến họ có khả năng và
dấn thân họ vào việc phụng sự Thiên Chúa, bằng cách tích cực tham dự vào Phụng
vụ của Giáo Hội, và bằng việc thi hành chức tư tế của phép Rửa tội qua chứng từ
của một đời sống thánh thiện và của đức bác ái hành động( xem LG 10)
1274
"Dấu ấn của Chúa"
(Dominicus character)( Th. Augustinô, Ep. 98,5) là dấu ấn mà Chúa Thánh Thần
ghi trên chúng ta "cho ngày ơn cứu chuộcơ (Ep. 4,30)( xem Ep. 1,13-14; 2
Cr 1,21-22)."Bởi vì phép Rửa tội là dấu ấn của sự sống vĩnh cửu"( Th.
Irênê, Dem. 3). Người tín hữu nào "giữ được dấu ấn" cho tới cùng,
nghĩa là trung thành với những đòi hỏi của phép Rửa tội, thì sẽ có thể ra đi
"với dấu ấn của đức tin"( MR., Lễ qui Rôma 97>, với niềm tin khi
lãnh nhận phép Rửa tội, trong sự chờ đợi diện kiến diễm phúc Thiên Chúa - kết
thúc niềm tin - và trong niềm hy vọng sống lại.
+ Công đồng Tridentinô,
trong phiên họp thứu VII, chống lại nhóm Cải Cách, đã định tín về ấn tín của ba
Bí Tích: Rửa tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh:
"Nếu ai bảo rằng trong
ba Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh không ghi một dấu ấn trong
linh hồn, đó là một dấu thiêng liêng, không thể tẩy xóa, đến độ không thể tái
ban được: Kẻ ấy bị trục xuất" (Can.9)
+ Công Đồng Florence (1438) đã tuyên bố trong sắc lệnh gửi cho
người Arménie đã biết giáo lý này, trước đó hai thế kỷ, Đức Giáo Hoàng Gregorio
IX (1227) ũng đã xác nhận, các người lãnh nhận bí tích Truyền chức thành sự
nhưng bất hợp pháp, đều lãnh nhận ấn tín bí tích. ĐGH Innocentê III đã nói về ấn
tín của BTTT:"Hành động Bí Tích sẽ in một ấn tín, bởi vì không gặp một
ngăn trở bởi một ý chí đối kháng" (DS 781).
+ Thánh Phaolô đã nói về dấu
ấn của Thánh Thần là dấu ấn đặc biệt, Thiên Chúa ghi khắc trên những người lãnh
BTRT, khác với ân sủng nhưng liên kết với ân sủng, dấu ấn ấy không tẩy xóa được:
- "Đấng củng cố chúng
tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là
Thiên Chúa" (2Cr 1,21)
- "Trong Đức Ki-tô, cả
anh em nữa
anh em đã được nghe lời chân lý
là Tin Mừng cứu độ anh em;
vẫn trong Đức Ki-tô,
một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng Thiên Chúa đã hứa." (Ep 1,13)
- "Anh em chớ làm phiền
lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ
ngày cứu chuộc." (Ep 4,30).
Suy tư của các nhà Kinh Viện:
1. Ấn tín là dấu chỉ đồng dạng
- Signum confiigurativum
- Ấn tín là một dấu giúp ta giống Thiên Chúa và thánh hiến cách
đặc biệt để phục vụ Người. Từ ấn tín cho ta cảm tưởng một dấu ấn được ghi trong
tâm hồn cho thấy sự giống nhau. Thánh Tôma nói Chúng ta giống Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa ghi dấu ấn của Người trong tâm hồn chúng ta[44].
Nên chi trong lời từ biệt người quá cố chúng ta hát: Chúng con trình diện lên
Chúa người tín hữu đã được đóng ấn Ba Ngôi Thiên Chúa. Như thế Ấn tín giúp con
nguòi giống Thiên Chúa, đặc biệt là giống Đức Kitô. Theo thánh Tôma, ấn tín như
một sự chia sẻ vào quyền tư tế của Đức Kitô:
- Ấn tín bí tích là một sự tham gia chưa trọn vẹn vào chức tu tế
của Đức Kitô
- Các tin hữu đã được đóng ấn tín sẽ nên giống Con Thiên Chúa
Nhập Thể, dưới phương diện con nguời thiên linh, tức là Đức Giêsu Kitô là Tư Tế
trước mặt Thiên Chúa.
- Án tín giúp cho người tín hữu trở thành thừa tác viên của Đức
Giêsu, ban cho họ quyền trở thành khí cụ tư tế của Đức Kitô, tức là Đức Kitô thực
hiện quyền tư tế trong họ và nhờ họ.
2. Ấn tín là dấu chuẩn bị
sẵn sàng - Signum dispositivum
Ấn tín khác biệt với ân sủng, nhưng liên hệ với ân sủng do Bí
Tích đem lại. Ấn tín là dấu chỉ cho ân sủng và chuẩn bị tâm hồn của tín hữu để
đón nhận ân sủng và bảo quản ân sủng. Thánh Augustinô củng cố lý thuyết ấn tín
BTRT có thể được lãnh nhận nhưng không kèm theo ân sủng tái sinh. Từ đó đưa đến
- Trong bí tích Rửa Tội hiệu qua trực tiêp là ấn tín chứ không
phải ân sủng, chỉ vì ấn tín xuất hiện khi BT thành sự, trong khi đó ân sủng
không thể xuất hiện nếu vắng bóng ấn tín.
- Ấn tín hoàn toàn độc lập khỏi các chuẩn bị cả người lãnh nhận.
- Ân sủng có thể tăng hay giảm, nhưng ấn tín mọt khi đã lanh nhận
thì không thể tăng hay giảm.
3. Ấn tín là một dấu chỉ phân biệt - signum distinctivum
Đối với Hội Thánh, ấn tín phân biệt người tín hữu với những người
chưa rửa tội, người ngoại giáo và giữa các tín hữu.
TÓM KẾT BÍ TÍCH THÁNH TẨY THEO GIÁO LÝ HỘI THÁNH
1275
Việc gia nhập Kitô
giáo được thực hiện nhờ ba bí tích: phép Rửa tội là khởi đầu cuộc sống mới;
phép Thêm sức là sự củng cố cho sự sống đó; và phép Thánh Thể thì dưỡng nuôi
các môn đệ bằng Mình và Máu Chúa Kitô hòng biến đổi họ nên giống Ngài.
1276
"Vậy anh em
hãy đi và hãy làm cho các dân tộc trở thành môn đệ Thày bằng cách rửa tội cho họ
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Thày đã
truyền dạy anh em" (Mt 28,19-20).
1277
Phép Rửa tội làm
cho ta sinh ra với sự sống mới trong Chúa Kitô. Theo ý Chúa, phép Rửa tội cần
thiết cho ơn cứu độ, cũng như Giáo Hội mà bí tích này đưa ta vào.
1278
Nghi thức chủ yếu
của phép Rửa tội là nhấn ứng viên xuống trong nước, hoặc đổ nước trên đầu người
đó, đồng thời đọc lời kêu cầu Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần.
1279
Hiệu quả tức ân sủng
của phép Rửa tội là một thực tại phong phú, gồm có: ơn tha tội nguyên tổ và tất
cả các tội lỗi của bản thân; được sinh ra trong sự sống mới, nhờ đó người ta trở
thành nghĩa tử của Chúa Cha, là chi thể Chúa Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần.
Nhờ đó, người lãnh nhận phép Rửa tội được nhập vào Giáo Hội, Thân Thể Chúa
Kitô, và được tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô.
1280
Phép Rửa tội ghi
trong linh hồn người ta một dấu hiệu thiêng liêng không thể tẩy xoá, đó là dấu ấn
và dấu này thánh hiến người Kitô hữu để lo việc phụng tự trong Kitô giáo. Vì lý
do dấu ấn của phép Rửa tội, cho nên bí tích này không thể được lập lại( xem DS
1609 và 1624).
1281
Những người chịu
chết vì đức tin, những người dự tòng và tất cả những người được ân sủng thúc đẩy,
tuy không biết Giáo Hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và cố gắng thực
thi thánh ý Ngài, đều được cứu thoát dù không lãnh nhận phép Rửa tội( xem LG
16)
1282
Từ thời xa xưa nhất,
phép Rửa tội đã được ban cho các trẻ nhỏ, vì đây là một ân sủng và một hồng ân
của Thiên Chúa, không đòi hỏi một công nghiệp nào về phía con người: các trẻ nhỏ
được Rửa tội trong đức tin của Giáo Hội. Bước vào cuộc sống Kitô hữu là bước
vào sự tự do thật.
1283
Còn đối với các trẻ
nhỏ chết khi chưa lãnh nhận phép Rửa tội, Phụng vụ của Giáo Hội kêu mời chúng
ta hãy tin tưởng vào lòng từ bi của Thiên Chúa và hãy cầu nguyện cho ơn cứu độ
của các em.
1284
Trong trường hợp
khẩn cấp, bất cứ ai cũng có thể làm phép Rửa tội, miễn là có ý làm điều mà Giáo
Hội làm, và đổ nước trên đầu ứng viên trong khi đọc rằng: "Tôi rửa anh (chị,
em) nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
KẾT:
Chúng ta đã tìm hiểu những
phần chính yếu về Bí Tích Thánh Tẩy. Mỗi người chúng ta cần suy niệm về hành
trình Thánh Tẩy và Hồng ân Thánh Tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận và cùng với ơn
Chúa giúp chúng ta sống mạnh mẽ Bí Tích Thánh Tẩy trong đời sống người Kitô hữu.
Đó cũng chính là ơn gọi Nên Thánh mà Thiên Chúa muốn con người vươn đến: Các
người hãy là thánh vì Ta là Thánh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO, Bản dịch của Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn Giáo 2011.
2. HEINRICH DENZINGER, Enchiridion Symbolorum - Definitionum
et declarationum de rebus fidei et morum, a cura di Peter Hunermann, EDB
2002.
3. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia.
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia.
4. BỘ GIÁO LUẬT 1983
5. BÙI VĂN ĐỌC, Thần học Tín Lý về Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích
Thêm Sức, Tài liệu lưu hành nội bộ của Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Sài Gòn.
6. NGUYỄN VĂN TRINH, Bí Tích Học - Bí Tich Thánh Tẩy, Tài
liệu lưu hành nội bộ của Đại Chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn, 2002.
7. Baptizo: “immersion, submersion”, A Greek-English
Lexicon of the New Testament, Grimm-Thayer, p. 94. (ngâm, nhấn chìm)
8. Baptizo: “to dip, immerse, sink”, Manual Greek
Lexicon of the New Testament, Abbott-Smith, p. 74. (nhúng, ngâm, chìm xuống)
9. Baptizo: “immerse, submerge. The peculiar N.T. and
Christian use of the word to denote immersion, submersion for a religious
purpose”, Biblico-Theological Lexicon of the New Testament Greek, Cremer.
10. Baptizo: “Baptizo, immerse”, Word Study
Greek-English New Testament, Paul. R. McReynolds, p. 907.
11. Theological Dictionary of the New Testament, One Volume,
ed. Geoffrey W. Bromiley, p. 92.
12. THE TEACHING OF THE TWELVE APOSTLES. A Translation with
Notes; AND EXCURSUS (Ι. TO IX.) ILLUSTRATIVE OF THE “TEACHING;” BY CANON
SPENCE, Μ.Α. VICAR OF S. PANCRAS. Second Edition. London: JAMES NISBET &
CO., 21 BERNERS STREET. MDCCCLXXXVIII. [1888AD].
[1] X.
GLHT 1211.
[2] x.
ÐGH Phao-lô VI, Tông hiến "Tham dự đời sống thần linh";
x. OICA tiền chú 1-2.
[3]
x. CÐ Flô-ren-ti-nô, DS 1314; CIC khoản 204, 1; số 9; CCEO khoản 675,1.
[4]
X. Rm 6,3-4; Cl 2,12.
[5] Baptizo: “to dip, immerse,
sink” (nhúng, ngâm, chìm xuống) - Manual Greek Lexicon of the New Testament, Abbott-Smith,
p. 74. Cf. Baptizo: “Baptizo, immerse”, Word Study Greek-English New
Testament, Paul. R. McReynolds, p. 907.
- Baptizo: “The
meaning of bapto and baptizo. bapto, ‘to dip in or under,’
‘to dye,’ ‘to immerse,’ ‘to sink,’ ‘to drown,’ ‘to bathe,’ wash.'” (Theological
Dictionary of the New Testament, One Volume, ed. Geoffrey W. Bromiley, p. 92)
- Baptizo: “consisting
of the process of immersion, submersion and emergence (from bapto, to
dip)” (Expository Dictionary of New Testament Words, W. E. Vine). (Baptizo:
bao gồm quá trình ngâm, nhấn chìm và nổi lên (từ bapto, đến nhúng)
[6] Vị
thần Mặt trời xuất phát từ Ba tư.
[7] Nguồn:Thái
lan thu thập nước thiêng chuẩn bị cho nhà vua đăng quang <https://vnexpress.net/the-gioi/thai-lan-thu-thap-nuoc-thieng-chuan-bi-cho-nha-vua-dang-quang-3906339.html>
[8]
"Herodotos xứ Halikarnasseus,
còn gọi là Hérodote hay Hêrôđôt (tiếng Hy Lạp: Hρόδοτος
Aλικαρνασσεύς Hēródotos Halikarnāsseús) là một nhà sử học người Hy
Lạp sống ở thế kỷ 5 trước Công nguyên (khoảng 484 TCN - 425 TCN), ông
được coi là "người cha của môn sử học" trong văn hóa phương Tây.
Herodotos là nhà sử học đầu tiên sưu tầm tài liệu một cách có hệ thống, kiểm
tra độ chính xác ở một mức độ nào đó và sắp xếp thành những thể truyện sống động
và có cấu trúc tốt. Ông được biết đến nhiều nhất qua tác phẩm Historiai (tiếng
Hy Lạp: Iστορίαι), một tài liệu ghi chép những cuộc tra cứu của ông về nguồn gốc
cuộc chiến tranh Ba Tư-Hy Lạp xảy ra vào giai đoạn từ 490 đến 479
TCN, và, rộng rãi hơn, về huyền sử, lịch sử hoặc phong tục của rất nhiều chủng
tộc sinh sống trên ba châu Á, Âu, Phi - những châu lục mà ông đã đi du lịch.
Herodotus là một trong những
nhà sử học vĩ đại nhất mọi thời đại. Ông là tác giả đầu tiên đề
cập đến lối sống, truyền thống văn hóa, thậm chí bộ máy thống trị và việc làm
ăn kinh tế của tộc người Scythia - một dân tộc cư ngụ ở
phía Bắc Hắc Hải, từ sông Danube cho đến sông
Đông. Ông cũng đã góp phần lập lên danh sách bảy kỳ quan thế giới cổ
đại qua những chuyến du lịch của ông. Một trong các kỳ quan này
là lăng mộ của Mausolus đã được dựng lên tại Halikarnasseus, quê
hương của ông, khoảng 70 năm sau khi ông qua đời. Bên cạnh danh tiếng, ông bị
chỉ trích là "Ông tổ nói láo" vì ông ghi cả những câu chuyện cổ tích
và truyền thuyết vào sử sách". (x. Herodotos
<https://vi.wikipedia.org/wiki/Herodotos>.
[9]
"Osiris (/ɔʊˈsaɪrɪs
/,trong tiếng Hy LạpὌσιρις còn gọi là Usiris; các tên khác dịch từ tiếng Ai
Cập là Asar, Asari, Aser, Ausar, Ausir, Wesir, Usir,
Usirevà Ausare) là một vị thần trong bộ 9 vĩ đại của
Heliopolis trong tôn giáo Ai Cập cổ đại. Ông là con trai của thần đất Geb và
nữ thần bầu trời Nut, là anh của 3 vị thần Isis, Set và Nephthys.
Ông được coi là thần của thế giới bên kia, người cai quản âm phủ.
Osiris được miêu tả là có nước da màu xanh, mang bộ
râu của pharaoh và xuất hiện dưới dạng xác ướp. Ông đội vương miện Atef (vương
miện trắng có gắn lông vũ ở hai bên), tay cầm néo và móc - biểu tượng
của một pharaoh".
Tc. Osiris <https://vi.wikipedia.org/wiki/Osiris>.
[10]
X. Nguyễn Văn Trinh, Bí Tích học, Tập.1, ĐCV Sài gòn 2002,14.
[11]
X. Lễ cắt bì <http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/kinh-thanh/thi-d-minh-ha/32-t-in-kinh-thanh/187-l-ct-bi>
[12] Lời
nguyện làm phép nước trong đêm Vọng Phục Sinh. (Sách Lễ Roma).
[13]
"Ông Áp-ra-ham đã tin, và vì thế được kể là người công chính.10 Ông
được kể là người công chính khi nào? Trước hay sau khi ông được cắt bì? Không
phải sau, mà là trước khi ông được cắt bì!11 Ông nhận được phép cắt bì như
dấu hiệu chứng thực rằng: nhờ tin mà ông được trở nên công chính, trước khi được
cắt bì. Như vậy, ông là cha của mọi kẻ tin mà không được cắt bì, và vì tin nên
được kể là công chính.12 Ông cũng là cha của những người được cắt bì,
nhưng không phải chỉ được cắt bì, mà còn dõi bước tổ phụ chúng ta là ông
Áp-ra-ham, trên đường đức tin, đức tin ông đã có trước khi được cắt bì".
(Rm 4, 9tt-11).
[14] X.
(Mc 1:9-11; Lc 3:21 -22 ).
[15]
"Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống
bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi". (1Pr 1,23; Ep
5,26); "như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng
sống".
[16]
Sách Giáo huấn, sách Didache (Giáo huấn của 12 Tông Đồ). Là một cuốn chuyên khảo
của thế kỷ thứ nhất, được viết trước năm 100. Cuốn sách được tái phát hiện vào
năm 1833 do Bryennios, Tổng Giám Mục Nicomedia thuộc Chính Thống giáo Hi Lạp,
trong bộ sách mà từ đó vào năm 1875 ngài đã xuất bản trọn bản văn các Thư của
thánh Clement I. Sách Giáo huấn được chia thành ba phần: 1. hai Đường, Đường Sống
và Đường Chết; 2. thủ bản phụng vụ hướng dẫn Rửa Tội, ăn chay, xưng tội và Rước
Lễ; 3. khảo luận về tác vụ. Việc dạy tín lý được bao hàm trong đó. Đường Sống
là mến Chúa yêu người, Đường Chết là danh sách các nết hư tật xấu cần phải
tránh. Có một phần hướng dẫn ngắn về Phép Rửa Tội, quy chiếu với các thánh Tông
Đồ, Giám Mục và Phó Tế, và bài khuyến khích để canh chừng và chuẩn bị cho việc
Chúa Kitô đến lần thứ hai.
[17] THE
TEACHING OF THE TWELVE APOSTLES. A Translation with Notes; AND EXCURSUS (Ι.
TO IX.) ILLUSTRATIVE OF THE “TEACHING;” BY CANON SPENCE, Μ.Α. VICAR OF S.
PANCRAS. Second Edition. London: JAMES NISBET & CO., 21 BERNERS STREET.
MDCCCLXXXVIII. [1888AD].
[18]
X. GLHT 1229.
[19] Bộ
Giáo Luật 1983, điều 864; x. Bộ Giáo Luật Đông Dương, điều 679.
[20]
x. Mc 16,16.
[21]
X. Bộ Giáo Luật, điều 861,1.
[22]
X. Bộ Giáo Luật, điều 861, 2.
[23]
1Tm 2,4.
[24]
Mc 16,6.
[25] Bộ
Giáo Luật, điều 866: "Trừ
khi có một ngăn trở nghiêm trọng người thành niên nào được Rửa Tội thì
cũng lãnh nhận bí tích Thêm Sức ngay sau khi bí tích Rửa Tội,tham dự Thánh Lễ,
cũng như rước lễ".
[26]
X. Ga 3,5.
[27]
X. Mt 28,20. CĐ Tridentinô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis. Canones de
sacramento Baptismi, canon5: DS 1618; CĐ Vaticanô II, Hiến Chế Tín
Lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18; Id., Săc lệnh Ad
Gentes, 5: AAS 58 (1966) 951-952.
[28]
X. GLHT 1258.
[29]
X. GLHT 1259
[30]
X. GLHT 1260.
[31] Bộ
Giáo Luật, số 1183: “Bản quyền sở tại (Giáo quyền địa
phương) có thể ban phép cử hành an táng theo nghi thức Giáo hội cho các trẻ em
mà cha mẹ có ý rửa tội nhưng đã chết trước khi được rửa tội.”
[32]
X. GLHT 1261.
[33]
X. GLHT 1262.
[34]
X. GLHT 1263.
[35]
X. GLHT 1264.
[36]
X. GLHT 1265 -1266.
[37]
X. GLHT 1266.
[38]
X. GLHT 1267.
[39]
1Pr 2, 5:"Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây
nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế
thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su
Ki-tô."
[40]
Dt 13, 17: "Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục
tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với
Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở,
bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em".
[41]
X. GLHT 1269 - 1270.
[42]
CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 93.
[43]
CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 22: AAS 57 (1965) 105.
[44]
X. S.theol.III,q.63,a.1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét