Bí Tích Thánh Tẩy



BÍ TÍCH THÁNH TẨY

Lm. Gioan B. Trương Đình Hà


MỤC LỤC TỔNG QUÁT















Dẫn nhập


1. Phụng vụ của Giáo Hội

Đời sống Phụng Vụ của Giáo Hội có hai mục đích chính là việc tôn thờ Thiên Chúa và thánh hóa nhân loại. Phụng vụ của Giáo Hội bao gồm: việc cử hành Thánh lễ, cử hành các bí tích, cử hành các giờ kinh phụng vụ, và cử hành các Á bí tích. Các bí tích là kho tàng ân sủng vô giá của Thiên Chúa được trao cho Giáo Hội quản lý. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô phân phát ân sủng của Thiên Chúa cho người tín hữu.
"Trong Giao Ước Mới, có bảy bí tích do Ðức Ki-tô thiết lập là Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối. Bảy bí tích liên quan đến tất các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu : người tín hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa lành và sai đi. Giữa những giai đoạn của đời sống tự nhiên và đời sống thiêng liêng, có nhiều điểm tương đồng". (GLHT 1210)
Bảy bí tích được chia làm ba nhóm[1]:
- Nhóm bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm sức, Thánh Thể
- Nhóm bí tích chữa lành: Hòa giải và Xức Dầu bệnh nhân
- Nhóm bí tích phục vụ sự hiệp thông và sứ vụ của các tín hữu: Truyền chức Thánh và Hôn phối.
Trong đó ba bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể đặt nền tảng cho toàn bộ đời sống Kitô hữu:
"Nhờ ân sủng của Ðức Ki-tô, con người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa. Tương tự như việc sinh ra, lớn lên và bảo tồn trong đời sống tự nhiên, người tín hữu được tái sinh trong đời sống mới nhờ bí tích Thánh Tẩy, được củng cố nhờ bí tích Thêm Sức, và nhận lấy bánh ban sự sống đời đời trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, họ được hiệp thông sâu xa hơn vào đời sống thần linh và ngày càng tiến tới đức mến hoàn hảo"[2]. (GLHT 1212)

2. Bí tích Thánh Tẩy là gì?

Trong phần này chúng ta tìm hiểu về Bí Tích Thánh Tẩy. Theo Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa:
"Bí Tích Thánh Tẩy là bi tích nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể của Ðức Ki-tô, được tháp nhập vào Hội Thánh và tham dự sứ mạng của Hội Thánh"[3]. (GLHT 1213).
Có thể định nghĩa một cách đúng đắn và thích hợp rằng "Bí tích thánh Tẩy là bí tích tái sinh chúng ta nhờ nước và trong Lời Chúa" (x. Giáo lý Rô-ma 2,2,5).
Như vậy Bí Tích Thánh Tẩy
- Là nền tảng toàn bộ đời sống người Kitô hữu
- Là của ngỏ dẫn vào đời sống thần linh và các bí tích khác
- giải thoat ta khỏi tội lỗi
- Tái sinh ta làm con Thiên Chúa
- Trở thanh chi thể của Đức Kitô
- được tháp nhập vào Hội Thánh
- Tham dự vào sứ mạng của Hội Thánh

3. Danh xưng

Theo Giáo Lý Hội Thánh Công giáo số 1214 nói về tên gọi của Bí Tích Thánh Tẩy như sau:
"Người ta gọi bí tích này theo nghi thức trung tâm là: Rửa (theo từ hy lạp baptizein) nghĩa là "ngụp lặn", "gìm mình dưới nước, "chìm xuống", "dìm xuống" trong nước tượng trưng cho việc người dự tòng được mai táng trong sự chết của Chúa Kitô để rồi được sống lại với Ngài[4]  như một "thụ tạo mới" (2 Cr 5,17; Gl 6,15).
Gọi là Bí tích Thánh Tẩy hay Bí tích Rửa tội. Tiếng Anh baptism, Tiếng Pháp gọi là baptême cùng xuất phát từ chữ baptisma hay baptismus trong tiếng La tinh. Cả hai từ này lại có gốc từ tiếng Hy Lạp là baptisma hay baptismos do động từ baptizo[5] (nhúng, ngâm, chìm xuống) mang tính chủ động và nẩy sinh ra từ baptizein, mang tính thụ động.
GLHT 1215
Bí tích này còn được gọi là "sự tắm rửa để được tái sinh và được đổi mới trong Chúa Thánh Thần"(Tt 3,5), vì nó nói lên và thực hiện sự sinh ra bởi nước và Chúa Thánh Thần mà nếu không có thì "không một ai có thể vào Nước Thiên Chúa" (Ga 3,5).
GLHT 1216
"Phép Rửa này còn được gọi là sự soi sáng, bởi vì những người lãnh nhận lời giáo huấn (về giáo lý) này, được soi sáng trong tâm hồn"( Th. Justino, Apol.1,61,12). Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận được Ngôi Lời là "ánh sáng đích thực soi sáng mọi người" (Ga 1,9), và "sau khi được soi sáng như thế"(Dt 10,32), họ trở nên "con của sự sáng" (1 Tx 5,5) và chính bản thân họ là "ánh sáng" (Ep 5,8):
Thánh Gregorio de Nazian nói:
 "Phép Rửa tội là hồng ân đẹp nhất và tuyệt nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa (...). chúng ta gọi bí tích này là hồng ân, ân sủng, sự xức dầu, sự soi sáng, y phục của tính bất hủ, sự tắm gội của ơn tái sinh, ấn tín, và tất cả những gì là quý trọng nhất. Hồng ân, vì được ban cho những người không có công trạng gì; ân sủng, vì được ban cả cho những phạm nhân; phép Rửa, vì tội lỗi được chôn vùi trong nước; xức dầu, vì người đó được thánh hiến và trở nên vương giả (như những người được xức dầu);  soi sáng, vì người ấy là ánh sáng chói loà; y phục, vì phép Rửa tội che đậy sự xấu hổ của ta; tắm rửa, vì nó rửa sạch; ấn tín, vì phép này gìn giữ chúng ta và là dấu hiệu của uy quyền Thiên Chúa" ( Th. Gregorio Naz. Or. 40,3-4).

CHƯƠNG I

NGUỒN GỐC LỊCH SỬ NGHI THỨC THANH TẨY TRONG CỰU ƯỚC

1. Ý thức về sự thiêng thánh của con người

Từ thời Cựu Ước, con người đã có ý thức về sự thiêng thánh, tuy còn mù mờ. Ý thức đó đã đưa con người đến tâm tình tôn giáo; và một khi đối diện trước Đấng linh thiêng, con người cảm thấy sợ hãi, tuy sợ hãi nhưng con người vẫn bị lôi cuốn đến với sự thiêng thánh. Đặc biệt khi ý thức về Đấng Thánh xuất hiện trong tâm trí con người, thì cũng đồng thời con người nhận ra sự yếu đuối, thấp hèn, tội lỗi của mình.
          + Một trong những mạc khải độc đáo trong Cựu Ước, đó là mạc khải của Thiên Chúa cho ông Môsê. Thiên Chúa từng bước tỏ mình cho con người. Cho con người được tiếp kiến, nói chuyện với Đấng Thánh.
" Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. Thiên sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? " ĐỨC CHÚA thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê! " Ông thưa: "Dạ, tôi đây! " Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh." Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa". (Xh 3, 1-6)
    + Các môn đệ sợ hãi trước cơn cuồng phong, lại càng hoảng sợ hơn trước Đấng uy quyền sai khiến cả gió và biển (thiên nhiên):
" Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia đi! " Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? " Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. Rồi Người bảo các ông: "Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? " Các ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? " (Mc 4, 35-41)
    + Nhận ra Đấng Linh Thiêng chính là Thiên Chúa cao cả quyền năng, con người cũng chợt nhận ra thân phận tội  thấp hèn của chính mình:
"Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá."5 Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. 8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! "9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta." (Lc 5, 4-10)

2. Ý nghĩa việc tắm rửa, thanh tẩy

Việc tắm để thanh tẩy có lẽ xuất hiện cùng với những hiện tượng tôn giáo thờ các thần đã có vào những kỷ nguyên trước công nguyên. Vì ý thức Đấng linh thiêng là Thánh thì khi đến gần, con người cần thanh tẩy chính mình, là tắm rửa để làm đẹp lòng Đấng Thánh. Trong các phương tiện thanh tẩy thì nước sông, nước biển là phương tiện gần gũi và thông thường nhất để thanh tẩy, cho nên người ta thường xuống các dòng sông để tắm hoặc thanh tẩy. Không những thế trong các buổi tế thần Attis hay Mithras[6], người ta giết bò hay dê rồi lấy máu rẩy lên các tín đồ, hoặc chính các tín đồ bôi lên đầu lên mặt, lên mình để sức lực thần linh thấm vào da thịt mình. Trong cựu ước dưới chân núi Sinai Môsê đã ký giao ước giữa dân với Thiên Chúa, thanh tẩy dân bằng máu:
"Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên với ĐỨC CHÚA, ngươi cùng với A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en. Các ngươi sẽ phủ phục ở đằng xa.2 Một mình Mô-sê sẽ lại gần ĐỨC CHÚA, còn những người khác sẽ không được lại gần. Dân cũng sẽ không được lên với Mô-sê."3 Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi lời của ĐỨC CHÚA và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: "Mọi lời ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành."4 Ông Mô-sê chép lại mọi lời của ĐỨC CHÚA. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en.5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế ĐỨC CHÚA.6 Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ.7 Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: "Tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo."8 Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, dựa trên những lời này." (Xh 24, 1-8).
Như ở Thái Lan mới đây, các quan chức Thái trong một nghi lễ truyền thống đã đi lấy nước ở 100 nguồn nước khác nhau trên 76 tỉnh của đất nước, để dùng cho nghi lễ rửa tội và xức dầu cho nhà vua trước nghi lễ đăng quang. Nước thiêng được thu thập từ khắp Thái Lan để dùng vào nghi thức rửa tội tại lễ đăng quang của Nhà vua Maha Vajiralongkorn tháng sau. Việc dùng nước làm lễ rửa tội là một truyền thống của đạo Bà la môn, được thực hiện từ thời hoàng gia Thái Lan thế kỷ 18[7].

3. Các nghi thức thanh tẩy

 3.1. Ngày lễ xá tội  trong Cựu Ước

"ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron, anh ngươi, đừng vào bất cứ lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước nắp xá tội ở trên Hòm Bia, và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra trong đám mây trên nắp xá tội.
3 A-ha-ron sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ tạ tội và một cừu đực để làm lễ toàn thiêu.4 Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải gai, mặc trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai. Đó là phẩm phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào.
5 Nó sẽ nhận hai con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, do cộng đồng con cái Ít-ra-en đem tới.6 A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình.7 Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ.8 Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê: một thăm "dành cho ĐỨC CHÚA", một thăm "dành cho quỷ A-da-dên."9 A-ha-ron sẽ tiến dâng con dê trúng thăm "dành cho ĐỨC CHÚA" và dùng làm lễ tạ tội.10 Còn con dê trúng thăm "dành cho A-da-dên", A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước nhan ĐỨC CHÚA, để cử hành lễ xá tội trên nó và thả nó cho A-da-dên trong sa mạc.
11 A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ dùng làm lễ tạ tội cho chính mình, và cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình: nó sẽ sát tế con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình.12 Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước nhan ĐỨC CHÚA bỏ đầy vào bình hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem vào phía sau màn trướng.13 Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan ĐỨC CHÚA, và khói hương như mây sẽ phủ nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không phải chết.14 Nó sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội, về phía đông; rồi đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.
15 Nó sẽ sát tế con dê dùng làm lễ tạ tội cho dân, sẽ đem máu nó vào phía sau màn trướng, và cũng sẽ lấy máu đó mà rảy như đã rảy máu con bò tơ: nó sẽ rảy máu đó lên nắp xá tội, và đàng trước nắp xá tội.16 Nó sẽ cử hành lễ xá tội cho thánh điện, vì những điều ô uế của con cái Ít-ra-en và những việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng". (Lv 16, 2- 16)
Ý nghĩa sâu xa hơn của việc thanh tẩy bằng máu là từ nay những người nhận máu đã thuộc về Đức Chúa. Như vậy việc lấy máu từ súc vật rảy trên dân chúng với ý tưởng thanh tẩy để được thánh hóa đã có từ lâu trong dân Do Thái: "Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch" (Dt 9,13).

Việc thanh tẩy bằng nước ta thấy rõ ở Ai cập và những nước có nền văn minh rất sớm như Babilon, Ba tư, Ấn Độ. Sông Nil ở Ai Cập, Sông Hằng Hà ở Ấn Độ, sông Euphrat ở miền Lưỡng Hà, sông Jordan ở Do Thái. Trường hợp của Naaman người Syria bị bệnh cùi và ông nghe nói có tiên tri Êlisê người của Thiên Chúa nên ông và thị vệ đi tìm vị tiên tri. Đến nơi vị tiên tri bảo ông hãy xuống tắm bảy lần dưới sông Jordan thì được sạch. Ở đây nói đến giá trị của dòng sông và việc tẩy sạch bệnh. Do vậy việc tắm rửa giúp cho con người được thanh sạch và việc tắm rửa trong các dòng sông có ý nghĩa thánh thiêng mãi cho đến tận ngày nay. Việc tắm giúp con người được tẩy sạch còn việc uống nước những dòng sông này có thể đem lại cho con người cuộc sống bất tử. Herodot[8] nói: "Nếu như một người Aicập hay một người ngoại lai nào bị cá sấu kéo xuống nước và cắn chết hay bị chết chìm trong dòng sông. Phải thong báo cho mọi người biết; nhưng cư dân chung quanh bờ, nơi xác người ấy được kéo lên, phải có bổn phận xức thuốc thơm lên xác người ấy, mặc những quần áo đẹp nhất và chôn trong những cổ quan tài linh thánh (cách ướp xác). Không ai được phép chạm đến người ấy, cho dù thân nhân hay bạn bè, nhưng chỉ có các tư tế của sông Nil mới được tẩm liệm và chôn cất người ấy hơn là một người bình thường" (II 90).
Như thế một người chết đuối được gọi là người "lặn xuống", người đó thuộc về thần Hadrian, Osiris[9] và được tôn thần, hưởng sự thờ tự suốt đời. Như vậy ta thấy việc tắm thanh tẩy theo nghĩa tôn giáo, ngoài mục đích tẩy sạch bụi trần, tẩy sạch những gì không đẹp lòng thần thánh, còn có giá trị thần thánh: ai uống nước sông Nil sẽ được bước vào liên hệ với thần thánh và được thành thần[10].

3.2. Các hình thức thanh tẩy

+ Toàn dân Israel phải thanh tẩy để gặp gỡ Thiên Chúa
- Đoạn Xuất hành 19, 10-14: Đoạn này nói đến việc dân sắp gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng con người phải kính sợ và trước mặt Thiên Chúa, con nggười phải không có một dấu vết tì ố nào. Thiên Chúa đòi hỏi ở dân phải giữ mình tránh khỏi nhiễm uế; họ phải giặt giặt quần áo,không gần gũi đàn bà...
"ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo,11 và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia ĐỨC CHÚA sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân.12 Ngươi sẽ định rõ cho dân một giới hạn chung quanh núi và bảo họ: Anh em phải coi chừng không được lên núi và chạm đến chân núi. Ai chạm đến núi thì sẽ bị giết.13 Không bàn tay nào được chạm đến người đó; nó sẽ bị ném đá cho chết hoặc bị bắn bằng cung tên, dù là thú vật hay là người, nó sẽ không được sống. Khi tù và rúc, dân sẽ lên núi."14 Ông Mô-sê từ trên núi xuống với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo.15 Ông Mô-sê bảo dân: "Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà." .
+ Trong sách Đệ nhị luật nói đến quân sĩ khi ra trận phải tẩy uế, giữ mình thanh sạch:
Đnl 23, 10-15: "Khi ra đóng quân đối diện với quân thù, anh (em) phải giữ mình khỏi mọi điều xấu.11 Khi ở giữa anh (em) có một người đàn ông không thanh sạch, vì xuất tinh ban đêm, thì người ấy phải ra ngoài trại, và không được trở vào trong trại;12 lúc chiều tà, người ấy sẽ tắm rửa bằng nước, và khi mặt trời lặn, sẽ trở vào trong trại. 13 Anh (em) phải có một chỗ ở bên ngoài trại, và anh (em) sẽ ra đó mà đi ngoài.14 Trong đồ đạc của anh (em), phải có một cái xẻng nhỏ, và khi ra ngồi ngoài đó, anh (em) sẽ dùng xẻng đó mà đào lỗ phóng uế, rồi lấp đi.15 Vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi đi lại lại giữa trại anh (em) để giải thoát anh (em) và trao thù địch của anh (em) cho anh (em). Vậy trại anh (em) phải là trại thánh, kẻo Người thấy có gì chướng nơi anh (em) mà không đi theo anh (em) nữa".

3.3.  Luật thanh sạch và ô uế trong Lê vi (11, 1-45)

 " ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron và bảo các ông rằng: 2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Trong tất cả các loài vật sống trên đất, đây là những loài các ngươi được ăn: 3 Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn.4 Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai, các ngươi không được ăn các con này: con lạc đà, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế;5 con ngân thử, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế;6 con thỏ rừng, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là ô uế;7 con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế.8 Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế.
9 Trong tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài các ngươi được ăn:
10 Còn tất cả những loài không có vây, không có vảy, ở sông hay ở biển, trong số mọi vật nhỏ sống dưới nước và mọi sinh vật sống dưới nước, thì các ngươi phải coi chúng là loài kinh tởm.11 Các ngươi phải coi chúng là loài kinh tởm: thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi phải coi là vật kinh tởm.12 Tất cả những loài sống dưới nước mà không có vây, không có vảy, các ngươi phải coi là loài kinh tởm. 13 Trong các loài chim, đây là những loài các ngươi phải coi là kinh tởm: người ta không được ăn, vì là loài kinh tởm: đại bàng, diều hâu, ó biển,14 diều hâu đen, mọi thứ kền kền,15mọi thứ quạ,16 đà điểu, cú, mòng biển, mọi thứ bồ cắt,17 cú vọ, cóc, cú mèo,18 chim lợn, bồ nông, ó,19 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi.
20 Mọi loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.21 Trong các loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi chỉ được ăn những thứ sau đây: những con ngoài chân ra có thêm càng để nhảy trên đất.22 Trong số những loài đó, đây là những loài các ngươi được ăn: mọi thứ cào cào, mọi thứ châu chấu, mọi thứ muỗm, mọi thứ dế.23 Nhưng mọi vật nhỏ có cánh mà có bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.
Đụng vào loài vật ô uế
24 Vì các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết của chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều,25 bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.26 Mọi con vật không có chân chẻ làm hai móng và không nhai lại, các ngươi phải coi là loài ô uế: bất cứ ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế.27 Trong số các loài vật đi bằng bốn chân, tất cả các con đi bằng bàn chân, các ngươi phải coi là loài ô uế; bất cứ ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều.28 Bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi phải coi chúng là vật ô uế.
Các vật nhỏ sống trên mặt đất.
29 Trong số các loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi phải coi những loài này là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, mọi thứ thằn lằn,30 tắc kè, kỳ đà, cắc ké, kỳ nhông, thạch sùng.
Quy định khác về việc đụng vào vật ô uế
31 Trong số mọi loài vật nhỏ, các ngươi phải coi những loài trên là ô uế. Bất cứ ai đụng đến chúng khi chúng đã chết, thì sẽ ra ô uế cho đến chiều.
32 Trong những con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế, dù là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ dùng để làm một công việc gì; phải nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi sẽ được thanh sạch.33 Nếu một con vật rơi vào trong bất cứ bình sành nào, thì tất cả những gì trong đó sẽ ra ô uế, và các ngươi phải đập vỡ bình ấy.34 Mọi thứ người ta ăn, nếu bị nước bình ấy đổ lên trên, thì sẽ ra ô uế; mọi thứ người ta uống, đựng trong bất cứ bình nào nói trên, sẽ ra ô uế.35 Một xác chết của chúng mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế; lò và bếp sẽ phải phá đi: các vật ấy là ô uế và các ngươi phải coi là những vật ô uế.36 Tuy nhiên suối và hầm nước thì khối nước vẫn thanh sạch, nhưng ai đụng đến xác chết của chúng, sẽ ra ô uế.37 Nếu một xác chết của chúng rơi trên hạt giống để gieo, thì hạt giống vẫn thanh sạch;38 nhưng nếu đã đổ nước vào hạt giống, mà một xác chết của chúng rơi trên đó, thì các ngươi phải coi hạt giống đó là ô uế.
39 Nếu một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai đụng vào xác chết của nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều;40 ai ăn thịt xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
41 Mọi loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất là vật kinh tởm, không được ăn.42 Mọi con vật bò bằng bụng, mọi thứ đi bằng bốn chân hay nhiều chân hơn, tóm lại mọi loài vật lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi không được ăn, vì chúng là vật kinh tởm.43 Các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh tởm vì mọi loài vật nhỏ lúc nhúc, các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì chúng: các ngươi sẽ ra ô uế vì chúng.44 Thật vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi; các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh; các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì mọi loài vật nhỏ bò trên đất.45 Thật vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng đã đưa các ngươi từ đất Ai-cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh."
Chính sự thanh tẩy với nước này tạo cho người và vật một khả năng bước vào chương trình của Thiên Chúa, bước vào một bậc trong phẩm trật thánh thiện của "dân thánh".

3.4. Những quy định trong nghi thức thanh tẩy

- Nhúng vào nước các vật ô uế : (Lv 11, 32) "Trong những con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế, dù là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ dùng để làm một công việc gì; phải nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi sẽ được thanh sạch"
- Rảy nước lên ngừoi hay vật: (Lv 14, 7): " Tư tế rảy bảy lần trên người đang được thanh tẩy khỏi phong hủi, tuyên bố nó thanh sạch, rồi thả con chim cón sống ra ngoài đồng"
- Giặt quần áo để thanh tẩy : (Lv 11, 24-25. 28.3940):
"Vì các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết của chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều,25 bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều. Bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi phải coi chúng là vật ô uế. Nếu một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai đụng vào xác chết của nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều;40 ai ăn thịt xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều".
- Đôi khi phải tắm trọn thân mình: (Lv 15, 5-18):
"Người nào đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
6 Ai ngồi lên đồ vật người bị lậu đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
7 Ai đụng đến thân thể người bị lậu, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
8 Nếu người bị lậu nhổ vào một người thanh sạch, người này sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
9 Mọi cái yên người bị lậu cưỡi lên sẽ ra ô uế.
10 Bất cứ ai đụng vào một đồ vật nào mà người ấy nằm hay ngồi lên, sẽ ra ô uế cho đến chiều.
Ai mang một đồ vật như thế, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
11 Người bị lậu chưa rửa tay mà đụng vào bất cứ người nào, thì người ấy sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
12 Bình sành người bị lậu đụng vào, sẽ phải đập vỡ, còn mọi bình gỗ sẽ được rửa bằng nước.
13 Khi người bị lậu được lành bệnh, nó phải tính bảy ngày mới được thanh tẩy; nó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, và nó sẽ ra thanh sạch.14 Ngày thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non, đến trước nhan ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ, mà đưa cho tư tế.15 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, trước nhan ĐỨC CHÚA, vì nó đã bị lậu.
16 Khi một người đàn ông xuất tinh, thì phải lấy nước tắm rửa thân thể, và sẽ ra ô uế cho đến chiều,17 khi có xuất tinh mà giây ra bất cứ áo hay đồ da nào, thì sẽ phải lấy nước mà giặt rửa, và những thứ ấy sẽ ra ô uế cho đến chiều.
18 Khi một người đàn bà giao hợp với một người đàn ông, thì cả hai phải lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều".
- Đặc biệt tắm với nước tro con bò cái màu hung đỏ (Ds 19, 2-12)
" ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron:2 "Đây là quy tắc trong luật mà ĐỨC CHÚA đã truyền: Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en đưa tới cho ngươi một con bò cái màu hung đỏ, nguyên tuyền, toàn vẹn và chưa bao giờ mang ách.3 Các ngươi sẽ trao nó cho tư tế E-la-da. Người ta sẽ đưa nó ra ngoài trại và sát tế nó trước mặt ông.4 Tư tế E-la-da sẽ lấy ngón tay nhúng vào máu nó mà rảy bảy lần về phía mặt tiền Lều Hội Ngộ.5 Người ta sẽ thiêu con bò trước mắt ông; da, thịt, máu và phân nó đều đốt hết.6 Và tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, hương thảo và chỉ màu đỏ thẫm mà quăng vào giữa con bò đang cháy.7 Sau đó tư tế phải giặt áo, và lấy nước rửa mình cho sạch, rồi trở về trại, tư tế sẽ bị nhiễm uế cho tới chiều.8 Người thiêu con bò ấy cũng phải lấy nước giặt áo và rửa mình cho sạch, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều.9 Một người nào thanh sạch sẽ hốt tro con bò ấy, để ở một nơi thanh sạch, bên ngoài trại. Đối với cộng đồng con cái Ít-ra-en, thì tro đó được dự trữ dùng làm nước tẩy uế. Đó là nghi thức tạ tội.10 Người đã hốt tro con bò cũng phải giặt áo, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều. Đối với con cái Ít-ra-en cũng như với ngoại kiều trú ngụ giữa chúng, thì đó là một quy tắc vĩnh viễn.
11 Ai đụng vào người chết, bất cứ người chết này là ai, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền.12 Ngày thứ ba và thứ bảy, người đó sẽ lấy nước nói trên mà thanh tẩy mình và sẽ được sạch; nếu người đó không thanh tẩy mình ngày thứ ba và thứ bảy, thì sẽ không được sạch".

3.5. Giao ước và phép Cắt Bì (St 17, 1-14)

Trong Cựu Ước, Lễ Cắt Bì là cắt bỏ cái bì phía trước ở dương vật của người nam, là biểu hiện của sự ô uế (Gr 4,4) mà Thiên Chúa chỉ định để làm dấu hiệu của giao ước giữa Ngài với Áp-ra-ham và dòng dõi người (St 17,10-14).
Ý nghĩa lễ Cắt Bì cơ quan sinh dục nói lên rằng, sự ô uế hiện hữu trong con người từ thuở sinh ra và do cha mẹ truyền lại đã bị lột bỏ. Nghi thức này là hình bóng cho sự tách biệt mình khỏi điều ô uế của bản tính xác thịt để có thể hiệp thông với Thiên Chúa. Theo sử gia Hérodote, từ thời cổ đại người Ai-cập, Ê-thi-ô-bi và Sy-ri hay làm lễ này, nhưng có lẽ chỉ nói đến những thầy tế lễ Ai-cập và người học đạo .
"Giao ước và phép cắt bì
1 Khi ông Áp-ram được chín mươi chín tuổi, ĐỨC CHÚA hiện ra với ông và phán: "Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo.2 Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông."3 Ông Áp-ram cúi rạp xuống.
Thiên Chúa phán với ông rằng: 4 "Phần Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc.5 Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc.6 Ta sẽ cho ngươi sinh ra nhiều, thật nhiều: Ta sẽ làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi.7 Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây sẽ là giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này.8 Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Ca-na-an, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng."
9 Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác.10 Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì.11 Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với các ngươi.12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào không thuộc dòng dõi các ngươi.13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu.14 Kẻ không được cắt bì, người đàn ông con trai không được cắt bì nơi bao quy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ: nó đã phá vỡ giao ước của Ta."
Thời đó họ làm lễ cắt bì bằng dao đá  :
 "Ông Mô-sê ra đi, trở về với bố vợ là ông Gít-rô và nói: "Xin để con đi về với anh em con bên Ai-cập xem họ còn sống hay không." Ông Gít-rô trả lời ông Mô-sê: "Anh đi bình an! "
19 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê ở Ma-đi-an: "Đi đi, hãy trở về Ai-cập, bởi vì mọi kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi."20 Ông Mô-sê đem vợ và con cái đi theo, cho họ cỡi lừa và trở về đất Ai-cập. Ông Mô-sê cầm cây gậy của Thiên Chúa trong tay.21 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Khi ngươi ra đi để trở về Ai-cập, ngươi hãy nhìn xem: mọi điều lạ lùng Ta đã ban cho ngươi có quyền làm, thì ngươi sẽ làm trước mặt Pha-ra-ô. Nhưng Ta, Ta sẽ làm cho nó cứng lòng và nó sẽ không thả cho dân đi! "22 Bấy giờ, ngươi sẽ nói với Pha-ra-ô: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Con đầu lòng của Ta là Ít-ra-en.23 Ta đã phán với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi thờ phượng Ta. Nhưng ngươi đã từ chối không thả nó đi, thì này chính Ta sẽ giết chết con đầu lòng của ngươi."
Con ông Mô-sê được cắt bì
" Vậy dọc đường, tại nơi ông dừng lại nghỉ đêm, ĐỨC CHÚA bắt gặp ông và tìm cách giết ông.25 Bấy giờ, bà Xíp-pô-ra lấy mảnh đá sắc cắt bì cho con, đụng vào chân ông, rồi nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi."26 Và ĐỨC CHÚA tha cho ông. Bà nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi" là vì phép cắt bì".
 (Xh 4,25; Ge 5,2). Trong vùng các dân tộc tại xứ Sy-ri, chỉ người Do-thái giữ lễ nầy để tách biệt riêng khỏi các dân Ca-na-an xung quanh mình. Việc Cắt Bì có thể đã có trước đời Áp-ra-ham, nhưng theo sách Sáng Thế, ta thấy đó là lần đầu tiên của tổ phụ Abraham chịu Cắt Bì, khi Thiên Chúa lập làm dấu hiệu của giao ước Ngài với Abraham. Từ đó mới có phép Cắt Bì của dân Do Thái.
Cho nên, dầu Abraham đã 99 tuổi cũng chịu lễ cắt bì, và các người giúp việc nam trong nhà Áp-ra-ham và Ích-ma-ên cũng đều chịu cắt bì.
"23 Ông Áp-ra-ham dẫn Ít-ma-ên con ông, mọi nô lệ sinh trong nhà ông và nô lệ mua bằng bạc, mọi đàn ông con trai trong số người nhà của ông, đem đi cắt bì nơi bao quy đầu của họ trong chính ngày ấy, như Thiên Chúa đã phán với ông.24 Ông Áp-ra-ham được chín mươi chín tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu.25 Ít-ma-ên, con ông, được mười ba tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu.26 Trong chính ngày ấy, ông Áp-ra-ham và Ít-ma-ên, con ông, chịu cắt bì;27 mọi người nhà của ông, những nô lệ sinh trong nhà hoặc nô lệ ông dùng bạc mà mua của người ngoại bang, đều chịu cắt bì với ông.(St 17, 23-27)
Chúa cũng phán bảo Môsê lúc sắp sửa ra khỏi Ai cập: những khách ngoại bang muốn giữ lễ Vượt qua phải chịu lễ cắt bì trước (Xh 12,48). Những thầy tế lễ Ai cập có lẽ bắt chước điều này lúc Giuse cầm quyền trên cả xứ Ai-cập và cưới con gái của thầy cả thành Ôn. Bởi lệ nầy, những người Israel được coi là tinh sạch, và nên một dân tư tế (Xh 19,6). Trong Gr 9,25, dường như có sự phân biệt hai hạng: Israel chịu cắt bì bên ngoài, song không chịu cắt bì trong lòng, và các dân ngoại không chịu cắt bì cả bên ngoài và trong lòng. Dân Israel nếu sanh con trai, khi được 8 ngày thì phải làm lễ cắt bì cho, rồi mới đặt tên, như họ đã làm khi làm lễ dâng con cho Chúa sau khi từ Ba-by-lon về (Lv 12,3; so Lc 1,59; 2,21). Con trẻ nào không chịu cắt bì có thể bị "truất ra khỏi" (St 17,14). Bà vợ của Môsê là Sê-phô-ra không bằng lòng, không cắt bì cho con mình thì Đức Chúa thình lình phạt lúc đi đường; Sê-phô-ra vội vàng làm để cứu chồng (Xh 4, 24-26).
Tại xứ Ai-cập, dân Israel vẫn giữ lễ nầy, song sau khi ra khỏi đó, những người Israel sanh ở đồng vắng đều không chịu cắt bì, vì họ đang bị hình phạt về tội vô tín, nên dường như đứng ngoài giao ước Ngài và không cần dấu hiệu đó (Gs5, 5-6). Nhưng đến Ghinh-gan, sắp vào xứ Ca-na-an, Giô-suê vâng theo Chúa làm lễ đó (Gs 5,2-9). Đến nay, người đạo Do-thái vẫn còn làm lễ nầy. Người A-rập tức dòng dõi Ích-ma-ên, khi lên 13 tuổi, theo gương tổ phụ mình, và người đạo Hồi giáo cũng giữ nữa[11].

2. Luật cắt bì rất khắc khe chi phối đời sống hôn nhân của người Do Thái thời các Tổ Phụ. Đọc bản văn: (St 34,13-25)
"13 Khi trả lời cho Si-khem và ông Kha-mo, cha cậu, các con trai ông Gia-cóp đã dùng mưu mà nói, vì cậu đã xâm phạm tiết hạnh của Đi-na, em gái họ.14 Họ nói với những người kia: "Chúng tôi không thể làm điều này là gả em gái chúng tôi cho một người không được cắt bì, vì đối với chúng tôi, đó là một điều sỉ nhục.15 Chúng tôi chỉ đồng ý với điều kiện là các ông trở nên như chúng tôi, nghĩa là cắt bì mọi đàn ông con trai.16 Bấy giờ chúng tôi sẽ gả các con gái của chúng tôi cho các ông và sẽ cưới các con gái của các ông về, chúng tôi sẽ ở với các ông và chúng ta sẽ thành một dân duy nhất.17 Còn nếu các ông không nghe chúng tôi mà chịu cắt bì, thì chúng tôi sẽ bắt con gái chúng tôi về, và chúng tôi sẽ ra đi."18Lời lẽ của họ vừa lòng ông Kha-mo và Si-khem, con ông Kha-mo.19 Chàng trai làm ngay điều đó, không chậm trễ, vì cậu mê con gái ông Gia-cóp; cậu lại là người có uy tín nhất trong gia đình.
20 Ông Kha-mo và ông Si-khem, con ông, ra cửa thành nói với dân rằng:21 "Những người ấy hiền hoà với chúng ta. Cứ để họ ở trong xứ, đi lại buôn bán ở đây; xứ này có đủ chỗ cho họ. Chúng ta sẽ cưới các con gái của họ về, và sẽ gả các con gái của chúng ta cho họ.22 Nhưng những người ấy chỉ đồng ý ở với chúng ta để thành một dân duy nhất, với điều kiện là mọi đàn ông con trai của chúng ta phải chịu cắt bì như họ.23 Các đàn vật của họ, tài sản của họ, gia súc của họ sẽ chẳng thuộc về chúng ta sao? Chúng ta chỉ cần đồng ý với họ là họ sẽ ở với chúng ta."24 Tất cả những người ra họp ở cửa thành ông Kha-mo đều nghe lời ông và Si-khem, con trai ông; mọi đàn ông con trai, mọi người ra họp ở cửa thành đều chịu cắt bì. 25 Sang ngày thứ ba, khi họ còn đang đau…".

4. Thanh tẩy cho người Prosélyte trong Do Thái giáo

Người Prosélyte là người "đạo theo" (cv2,11); người Do Thái gọi người Prosélyte là người không phải gốc Do Thái, nhưng theo đạo Do Thái. Từ thời dân Do Thái rời bỏ Ai cập về Đất hứa đã có những người có cảm tình với ngươi Do Thái cũng bỏ Ai Cập đi theo những người Do Thái về Đất Hứa. Đối với người Do Thái, nghi thức này rất quan trọng. Họ cử hành nhiều nghi thức để biến một người ngoại giáo, nhiễm đầy sự ô uế, được vào dân tuyển chọn của Thiên Chúa, tức là một dân Thánh; biến họ trở thành người thanh sạch và trở thành con của lời hứa. Người Do Thái xem nghi thức này như một cuộc tái sinh. Nghi thức thanh tẩy người tân tòng trong Do Thái giáo phổ biến vào thế kỷ thứ 2 scn.

+ Nghi thức Cắt Bì được tiếp nối bằng nghi thức thanh tẩy, dần dần trở thành nghi thức tắm rửa toàn thân. Rồi người được thanh tẩy nghe giảng huấn về giới luật và cuối cùng dâng lễ vật.
Sách Yebamot ghi: "chúng ta cắt bì cho anh ta; khi đã lành lặn, chúng ta Thanh Tẩy anh ta, trong khi hai thầy Rabbi giang dạy cho anh những giới luật. Tiếp đó anh ta có giá trị như một người Do Thái. Đối với một phụ nữ, hai Rabbi dạy dỗ chị ta phai đứng bên ngoài việc tắm rửa của chị…".

+ Nhận định:
- Chúng ta thấy mối liên hệ giữa Nước và Sự Ô uế, dù chỉ là bên ngoài
- Liên hệ giữa nước và sự linh thánh. Nước có thể đưa con người vào lãnh vực thánh, lãnh vực của sự thanh sạch.
- Liên hệ giữa Nước và Hy Tế. Qua nhiều lần thanh tẩy bằng nước, thầy tư tế và thầy Lê vi mới được tham dự vào các buổi hiến tế.

Ý nghĩa về những nghi thức thanh tẩy bằng nước

- Nghi thức thanh tẩy bằng nước diễn tả một sự sám hối và đem lại một lời hứa tha thứ
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước liên kết với một giáo lý và một lời hứa đưa chúng ta vào ý định của Chúa.
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước liên kết với một thừa tác viên thực hiện việc này trong Danh Thiên Chúa .
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước đem lại một thần trí mới, đặc thù cho thời đại cánh chung.
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước tập họp số sót của những người được cứu; nó mang tính cộng đoàn và phải thực hành trước những chứng nhân.
- Nghi thức thanh tẩy bằng nước chuẩn bị cho ta thi hành những nghi thức thuộc chức tư tế.

5. Những hình ảnh tiên trưng về Bí Tích Thánh Tẩy

- Nước từ lúc khởi nguyên, "Thần khí Chúa bay lượn trên mặt nước" (St 1,2), từ nước này phát sinh ra vũ trụ. Các giáo phụ Tertullien (De baptismo III,t.1) và Cyrillo thành Giêrusalem (CAth, III,5) đều xem nước trong sáng thế là hình ảnh của bí tích Thánh Tẩy, được tràn đầy Thánh Thần để sinh những người Kitô hữu vào đời sống mới.
- Nước của lụt đại hồng thủy: (1Pr 3, 20-21), Hội Thánh nhìn tàu  Nôe là hình ảnh tiên báo ơn cứu độ nhờ bí tích Rửa Tội: "Trong con tàu ấy, một số ít cả thảy là 8 người, được cứu thoát nhờ nước".
- Áng mây dẫn đường cho dân Do Thái trong sa mạc: (1Cr 10,2) đám mây soi sáng dân Do Thái ban đêm và bảo đảm có ánh sáng ban ngày; đó là hình ảnh của bí tích Thánh Tẩy soi sáng tâm hồn kẻ tin và làm dịu đi những ngọn lửa của vật dục thiêu đốt họ.
- Hình ảnh Chúa giải thoát dân Do Thái khỏi Ai cập, Vượt qua Biển Đỏ, cũng như dân Do Thái vượt qua sông Giordan để vào miền đất hứa (1Cr 10, 2) . Có hai sự kiện: sự giải phóng dân Do Thái và việc nhấn chìm  người Aicập. Biểu trưng cho nước Rửa Tội là giải thoát người Kitô hữu khỏi tội lỗi và tiêu diệt kẻ thù của họ là ma-quỷ (1 Cr, 10, 2) và vượt sông Giordan để vào miền Đất Hứa là hình ảnh dân Mới sẽ đi vào đời sống Vĩnh cửu nhờ bí tích Rửa tội.
- Nước vọt ra từ tảng đá do Môsê đập gậy vào: hình ảnh Chúa Kitô cứu các Kitô hữu nhờ nước rửa tội. (1Cr 10,4)
GLHT số 1217, 1218, 1219,1220, 1221 nói đến những tiên trưng của bí tích Rửa Tội trong Cựu Ước, những hình ảnh tiên trưng này được nêu rõ trong lời nguyện làm phép nước rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh.
"Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong đêm cực thánh này, chúng con là dân Chúa, đang họp nhau canh thức cầu nguyện, để tưởng nhớ công ơn Chúa đã sáng tạo chúng con cách lạ lùng, và cứu chuộc còn lạ lùng hơn nữa. Xin Chúa thương nhận lời chúng con và thánh hoá nước này do chính Chúa đã dựng nên, để làm cho ruộng đất phì nhiêu màu mỡ, cho thân xác con người được sạch sẽ và thoải mái. Và trải qua lịch sử cứu độ, nước thiên nhiên đã trở nên khí cụ của tình thương hải hà; Quả vậy, Chúa dùng nước Biển Ðỏ cứu dân riêng khỏi vòng nô lệ, và làm vọt lên giữa sa mạc khô cằn một nguồn nước cho dân giải khát. Các ngôn sứ cũng dùng hình ảnh nước mạch tuôn trào để tiên báo Chúa sẽ lập giao ước mới với loài người chúng con, và sau hết, khi Ðức Kitô chịu phép rửa tại sông Gio-đan, Chúa đã thánh hoá nước trong lành, để thanh tẩy con người tội lỗi chúng con và cho chúng con được tái sinh nên con người mới. Vậy giờ đây, khi chúng con rảy nước thánh trên mình, để nhớ lại bí tích thánh tẩy chúng con đã lãnh nhận"[12].

- Việc cắt bì nơi Do Thái giáo hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Tẩy (Rm 2, 25-29)

Trong thời Cựu Ước, Cắt bì là dấu chứng cho giao ước Thiên Chúa ký kết với dân của Người. Đây là hành động giúp cho một người bước vào dân tộc của Thiên Chúa, cũng như nhờ bí tích Rửa tội, con người bước vào sự hiệp thông với Chúa Kitô và gia nhập cộng đoàn Hội Thánh. Thánh Phaolô là người chống lại việc cắt bì thể xác. Đối với thánh nhân, người Kitô hữu cắt bì trong tinh thần, có nghĩa là cùng thông phần sự chết với Đức Kitô, để cùng Người phục sinh trong đời sống mới (x. Rm 4,11)[13]. Bí tích Rửa tội của Kitô giáo là dấu chỉ và là nhân tố của ân sủng, còn phép cắt bì chỉ là ở bên ngoài thể xác, nên chi cắt bì cần phải có lòng tin nữa. Như Abraham được kể là người công chính do bởi đức tin. Chúng ta cùng nghe lời Thánh Phaolô qua đoạn thư Rôma sau:

"25 Còn phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn  có được cắt bì cũng kể như không cắt bì.26 Trái lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao?27 Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật.28 Thật vậy, người Do-thái chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, nơi thân xác.29 Nhưng người Do-thái chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi."

- Nước thanh sạch chính là Thần Khí đổi mới tâm hồn:

Đọc (Edêkiel: 36, 25-28): " Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".

CHƯƠNG II

THÁNH TẨY TRONG  TÂN ƯỚC

1. Phép Rửa của Chúa Giêsu

GLHT 1223
Tất cả những hình bóng báo trước của Giao Ước Cũ đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài khởi sự cuộc đời công khai của Ngài, sau khi đã để cho thánh Gioan Tẩy giả làm phép Rửa cho Ngài trong sông Giođanô ( xem Mt 3,13>, rồi sau khi sống lại, Ngài đã trao sứ mạng cho các tông đồ: "Vậy anh em hãy đi, làm cho các dân tộc trở thành môn đệ Thày bằng cách rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19-20)( xem Mc 16,15-16).
 GLHT 1224
Chúa chúng ta đã tự nguyện chịu phép Rửa của thánh Gioan, một phép Rửa dành cho các tội nhân, vì Ngài muốn "chu toàn mọi sự công chính" (Mt 3,15). Cử chỉ này của Chúa Giêsu là một cách tỏ bày "sự hư vô hoá bản thân mình" (Pl 2,7). Thánh Thần bay là là trên dòng nước vào lúc sáng tạo lần thứ nhất, nay lại đáp xuống trên Chúa Kitô, mở đầu cho sự sáng tạo mới, và Chúa Cha tỏ cho thấy Chúa Giêsu là "Con rất yêu dấu " của Ngài (Mt 3,16-17).
 GLHT 1225
Nhưng chính trong sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Kitô mới mở ra cho mọi người những nguồn mạch của phép Rửa tội. Đúng thế, trước đó Ngài đã nói về "phép Rửa" mà Ngài sẽ phải được rửa, khi Ngài sắp chịu đau khổ ở Giêrusalem (Mc 10,38)( xem Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá (Ga 19,34) là những điển hình của phép Rửa tội và phép Thánh Thể, những bí tích của cuộc sống mới( xem 1 Ga 5,6-8>: Từ nay, người ta có thể "sinh ra bởi nước và Thánh Thần " để bước vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).
 "Bạn hãy xem mình được rửa tội ở đâu, phép Rửa tội bởi đâu mà có: đó chính là bởi Thập giá Chúa Kitô, bởi sự chết của Chúa Kitô. Tất cả Mầu nhiệm là ở đó: Ngài đã chịu đau khổ vì bạn. Chính trong Ngài bạn đã được cứu chuộc, chính trong Ngài bạn đã được cứu thoát"( Th. Ambrosio, sacr. 2,6).

3. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy theo luật Môsê

Chúa Giêsu xuất thân từ Do Thái giáo, nên Người biết và thực hành các nghi thức Do Thái như một tín hữu trung thành  ngay từ thuở bé cùng với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Theo Kinh Thánh, sau tám ngày như luật dạy mọi con trẻ phải được dâng cho Thiên Chúa và chịu phép cắt bì.
"21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ". (Lc 2, 21)
- Và được thanh tẩy theo nghi thức Do Thái, tiến dâng cho Thiên Chúa và dâng lễ vật theo luật Môsê:
"22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa",24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" (Lc, 2, 22-24).

4. Chúa Giêsu chịu phép Rửa bởi Gioan Tẩy Giả

4.1. Gioan rao giảng phép Rửa Sám Hối (Mt 3, 1-10)

"Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng:2 "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần."3 Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông.6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.9 Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa".
- Gioan đã kêu gọi được mọi thành phần dân chúng lúc ấy đến với ông để chịu phép Rửa ở sông Giordan.
- Gioan thu phục nhiều môn đệ, cả những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu lúc đầu cũng là những môn đệ của Gioan.
- Mọi người đều coi Gioan Tẩy Giả là Đấng Mêsia, hay một Ngôn sứ (Mt 21, 25-26) "Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta? " Họ mới nghĩ thầm: "Nếu mình nói: "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy? "26 Còn nếu mình nói: "Do người ta", thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ". và trong Luca 3,15: "Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a!"
- Thánh Phaolô đã gặp các môn đồ của Gioan: (Cv 19, 1-5): "Trong khi ông A-pô-lô ở Cô-rin-tô thì ông Phao-lô đi qua miền thượng du đến Ê-phê-xô. Ông Phao-lô gặp một số môn đệ2 và hỏi họ: "Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa? " Họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói."3 Ông hỏi: "Vậy anh em đã được chịu phép rửa nào? " Họ đáp: "Phép rửa của ông Gio-an."4 Ông Phao-lô nói: "Ông Gio-an đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giê-su."5 Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su".

4.2. Chúa Giêsu chịu phép Rửa do chính Gioan thực hiện

Mở đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu đã đến sông Giorđan và bứơc xuống dòng nước để Gioan làm phép Rửa. Việc này cả bốn Phúc Âm đều nói đến[14]. Hành động của Chúa Giêsu là Ngài hạ mình xuống làm theo luật dạy để giữ trọn đức công chính. Có thể nói đây là mầu nhiệm mà cả Gioan và Chúa Giêsu đều tuân phục: "13 Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình.14 Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi! "15 Nhưng Đức Giê-su trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người".
Chúa Giêsu cũng xác nhận đường lối và cách thức rao giảng của ông để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo trước. "Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: "Ông là ai? "20 Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Ki-tô."21 Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không? " Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? " Ông đáp: "Không."22 Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông? "23 Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói” (Ga1, 19-23). Gioan Tẩy Giả chính là tiếng hô trong hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi".

4.3. Phép Rửa của các môn đệ Chúa Giêsu

Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan, Người đến miền Giuđêa với các môn đệ và làm phép Rửa. Có thể nói đây là khởi đầu của phép Rửa mới trong Thánh Thần mà Gioan đã giới thiệu mà sẽ được hoàn tất và viên mãn trong máu Chúa Giêsu trên thập giá.
"Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đi tới miền Giu-đê. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa.23 Còn ông Gio-an, ông cũng đang làm phép rửa tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa.24 Lúc ấy, ông Gio-an chưa bị tống giam.
25 Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gio-an và một người Do-thái về việc thanh tẩy.26 Họ đến gặp ông Gio-an và nói: "Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông."27 Ông Gio-an trả lời: "Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.28 Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: "Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người.29 Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. (Ga 3, 22-29)

Nhận định về phép rửa của Gioan:

- Phép Rửa của Gioan là phép Rửa sám hối: "Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội" (Lc 3,3). Gioan rao giảng sự sám hối và làm phép rửa, nhưng không có hiệu năng tha tội.
- Phép Rửa của Gioan là để chuẩn bị, dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Sứ vụ của Gioan là Tiền Hô, đi trước loan báo Đức Mêsia sẽ đến viếng thăm và cứu chuộc dân Người.
- Chúa Giêsu chịu phép Rửa của Gioan là để làm trọn lời Kinh Thánh, Đấng vô tội đã hạ mình xuống đồng hóa với tội nhân.
- Chúa Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa như Gioan đã giới thiệu, Đấng xóa tội trần gian. Chính Ngài khi xuống sông Gior-đan đã thánh hóa dòng nước để từ đây phép Rửa do Chính Chúa Giêsu thiết lập sẽ thanh tẩy mọi vết nhơ tội lỗi của mọi tín hữu trong Chúa Thánh Thần: " Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa" (Lc 3,16)
Như trên ta phân biệt phép rửa của Gioan là phép rửa sám hối bằng nước để chuản bị đón nhận ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến và sẽ hoàn thất trong ngày cánh chung; và Phép Rửa của Chúa Giêsu là phép Rửa trong Thánh Thần. Qua đó Tân Ước khẳng định, Gioan làm phép rửa để chuẩn bị thời cánh chung. Chúa Giêsu khai mạc thời cánh chung bằng cách ban Thánh Thần để tha tội cho mọi người để mọi người nhận được ơn cứu độ. Tân Ước đã cho ta một khẳng định rõ ràng Bí tích Thánh Tẩy của Kitô giáo là "Phép Rửa trong Thánh Thần do chính Chúa Giêsu ban".

5. Phép Rửa Tội của Hội Thánh Công giáo

- Từ ngày lễ Ngũ Tuần Hội Thánh đã cử hành và ban Bí tích Rửa tội.
- Bí tích Rửa tội luôn gắn liền với đức tin
- Bí tích Rửa tội được ban cho ai: những người Do Thái tin vào Chúa Giêsu, những người biết kính sợ Thiên Chúa, những người ngoại giáo.
- Để được nhận bí tích Rửa tội cần có lòng sám hối, hoán cải con người.
GLHT 1226:
" Ngay từ ngày Lễ Ngũ tuần, Giáo Hội đã cử hành và ban phép Rửa tội. Đúng thế, thánh Phêrô đã tuyên bố với đám đông tâm trí rối bời sau khi nghe ông giảng: "Anh em hãy hối cải và mỗi người hãy chịu phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được tha thứ các tội lỗi của mình. Và anh em sẽ nhận được hồng ân Chúa Thánh Thần" (Cv 2,38). Các Tông đồ và những cộng tác viên của các ông đã ban phép Rửa tội cho tất cả những ai tin kính Chúa Giêsu: những người Do Thái, những người kính sợ Thiên Chúa, những người ngọại giáo( xem Cv 2,41; 8,12-13; 10,48; 16,15) Luôn luôn phép Rửa tội được coi là gắn liền với niềm tin. Thánh Phaolô nói với viên cai ngục của ngài tại thành Philipphê rằng: "Anh hãy tin kính Chúa Giêsu thì anh sẽ được cứu vớt, anh và cả nhà anh". Và câu truyện được kể tiếp: "Lập tức viên cai ngục nhận lãnh phép Rửa tội cùng với các người trong gia đình anh" (Cv 16,31-33).
- Nhờ bí tích Rửa tội, tín hữu được hiệp thông vào sự chết của Đức Kitô, được mai táng và cùng được sống lại với Người.
- Khi chịu phép Rửa tội trong Hội Thánh, người tín hữu "mặc lấy Đức Kitô" :"Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.27 Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô" (Gl 3, 27)
- Nhờ Chúa Thánh Thần, bí tích Rửa Tội là Phép Rửa để thanh tẩy, thánh hóa, và công chính hóa.
GLHT 1227
"Theo thánh tông đồ Phaolô, người tín hữu nhờ phép Rửa tội mà hiệp thông với cái chết của Chúa Kitô, được mai táng và được sống lại với Ngài:
 "Được rửa tội trong Chúa Giêsu Kitô, chính là chúng ta đã được rửa trong sự chết của Ngài. Vậy chúng ta đã được mai táng với Ngài trong sự chết, nhờ phép Rửa tội, để rồi, cũng như Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống trong một cuộc sống mới" (Rm 6,3-4)( xem Cl 2,12).
Những người lãnh nhận phép Rửa tội thì "mặc lấy Chúa Kitô" (Gl 3,27). Do Chúa Thánh Thần, phép Rửa tội là một sự tắm Rửa có sức thanh tẩy, thánh hoá và công chính hoá" ( xem 1 Cr 6,11; 12,13[15]).
­-  Bí tích Rửa tội là phép rửa trong nước mà nhờ đó Lời Thiên Chúa được sinh hoa kết trái.
 GLHT 1228
Như vậy phép Rửa tội là một sự tắm trong nước, nhờ đó "hạt giống bất diệt" của Lời Thiên Chúa sinh hiệu quả mang sức sống của nó ( xem 1 Pr 1,23; Ep 5,26) Thánh Augustinô sẽ nói về phép Rửa tội rằng: "Lời nói hợp với yếu tố vật chất và thế là trở thành một bí tích"( Th. Augustinô, Ev.Jo. 80,3)

CHƯƠNG III: CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH TẨY

1. Sách Didache[16] : Giáo Huấn của Mười Hai Tông Đồ

Chương Bảy
1. Về Phép Rửa tội, hãy rửa như sau:
Sau khi đã dạy bảo chuẩn bị, "hãy rửa tội nhân Danh Cha, và Con, và Thánh Thần, trong dòng nước chảy. 
2. Nhưng nếu không có dòng nước chảy, có thể rửa cách khác, và nếu không thể dùng nước lạnh, có thể dùng nước ấm.
3. Nếu cách trước không được, hãy dùng cách sau bằng cách đổ nước ba lần trên đầu "Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần". 
4. Nhưng trước khi rửa tội, người rửa tội và người được rửa tội hãy giữ chay, và những người khác cũng giữ chay, nếu có thể được. Anh chị em cũng bảo người được rửa tội giữ chay một hay hai ngày[17].

2. Các tài liệu của Giáo Hội về Bí Tích Thánh Tẩy

- Hiến Chế De Sacra Liturgia " Sacrosantum Concilium", ngày 4.12.1963. Trong chương III có những điều khoản liên quan đến Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức: từ số 64-71.
- Ordo Baptismi Parvulorum (1969) - Nghi thức Rửa Tội cho các trẻ nhỏ
- Ordo Initiationis Christianae Adultorum (1972) - Nghi Thức Gia Nhập Kitô Giáo Của Người Lớn.
- Nghi Thức Bí Tích Thêm Sức (1972)
- Giáo Luật 1983 - Các điều khoản từ 849 - 878 nói về Bí Tích Rửa Tội.
- Giáo lý Hội Thánh Công giáo (1992) - Bí Tích Thánh Tẩy từ số 1213 - 1284.

3. Khai tâm Kitô giáo

Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai tức thời các Tông Đồ, những ai muốn gia nhập đạo đều phải trải qua thời gian khai tâm Kitô giáo gồm nhiều giai đoạn. Hành trình có thể nhanh hay chậm nhưng phải luôn hội đủ những điều cốt yếu sau[18]:
- Loan báo Lời Chúa
- Đón nhận Tin Mừng
- Hối cải
- Tuyên xưng đức tin
- Nhận phép Rửa tội
- Ban Thánh Thần
- Lãnh nhận Thánh Thể

4. Phụng vụ Thánh Tẩy trong đêm Vọng Phục Sinh

Trong phần phụng vụ Thánh Tẩy của đêm Vọng Phục Sinh rất quan trọng để chung ta tìm hiểu trong thần học về Bí tích Thánh Tẩy thời hiện tại.
Phụng  Vụ đặc biệt trong đêm Vọng Phục Sinh gồm có bốn phần: 1. Làm phép lửa mới,2. Phụng vụ Lời Chúa,3. Phụng vụ Thánh Tẩy, 4. Phụng vụ Thánh Thể.

4.1.  Làm phép lửa mới - Thắp nến Phục sinh - Công bố Tin Mừng Phục Sinh

4.2. Phụng vụ Lời Chúa gồm:

-  9 bài đọc lần lượt đi qua chặng đường cứu độ từ sáng tạo đến  nước rửa tội
1. Về Sáng tạo (St 1,1,22)
2. Về Abraham hiến tế Isaac (St 22, 1-18)
3. Vượt qua Biển Đỏ (Xh 14, 15-15,1)
4. Về thành Giêrusalem mới (Isaia 54, 5-14)
5 Về ơn cưú độ được ban nhưng không cho mọi người (Isaia 55, 1-11)
6. Về ơn khôn ngoan đích thực (Br 3,9-15.31-4,4)
7. Về tinh thần mới, trái tim mới (Ed 36, 16-17a. 18-28)
8. Về Bí tích Thánh Tẩy (Rm 6,3-11)
9. Phúc Âm về Chúa Phục Sinh (Mt 28, 1-10; Mc 16, 1-8; Lc 24, 1-12)

4.3. Phụng vụ Thánh tẩy

Sau bài giảng là phụng vụ Thánh Tẩy, bắt đầu bằng kinh cầu các thánh (nếu có người dự tòng), rồi đến làm phép nước. Lời nguyện làm phép nước cô đọng tất cả những gì Hội thánh suy tư về phép Thánh Tẩy. Lời nguyện này gần như tóm lược lịch sử cứu độ từ Cựu Ước đến Tân Ước, từ khởi nguyên khí thần bay là trên mặt nước đến phép rửa của Gioan, từ biến cố dân Do Thái vướt Biển Đỏ ráo chân đến cái chết cứu độ của Con Chúa, từ cạnh sườn bị đâm thâu máu cùng nước chảy ra, phát sinh các bí tích, đến sự phục sinh của Con Chúa và sau cùng là mệnh lệnh trước khi Chúa lên trời: Rửa tội cho muôn dân để đón nhận ơn cứu độ. Vì vây lời nguyện này rất quan trọng để ta tìm hiểu , xin được ghi nguyên văn lời nguyện làm phép nước trong sách lễ Rôma:
"Lạy Chúa, Chúa dùng quyền năng vô hình mà làm cho các bí tích trở nên hữu hiệu lạ lùng. Và qua dòng lịch sử cứu độ, Chúa đã bao lần dùng nước do chính Chúa tạo thành để bày tỏ hiệu năng của phép thánh tẩy. Quả vậy, ngay từ lúc vũ trụ khởi nguyên, Thánh Thần Chúa đã bay là trên mặt nước, để từ đó nước hàm chứa năng lực thánh hoá muôn loài. Chúa lại dùng nước hồng thủy làm hình ảnh tiên báo phép rửa ban ơn tái sinh, vì thời đó cũng như bây giờ, nước biểu thị quyền năng Chúa vừa tiêu diệt tội lỗi lại vừa khai mở một đời sống mới. Chúa đã giải thoát con cháu ông Áp-ra-ham khỏi vòng nô lệ mà dẫn qua Biển Ðỏ ráo chân, để họ tượng trưng cho một dân tộc mới, là những người được thánh tẩy sau này. Và sau hết, khi đến thời đến buổi, chính Con Một Chúa đã lãnh nhận phép rửa của thánh Gioan trong dòng nước sông Gio-đan và được Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mình. Lúc bị treo trên thập giá, Người đã để cho máu cùng nước từ cạnh sườn chảy ra. Và sau khi sống lại, Người đã truyền cho các môn đệ rằng: "Anh em hãy đi giảng dạy và làm phép rửa cho muôn dân nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần". Vậy giờ đây, lạy Chúa, xin thương nhìn đến Giáo Hội và khơi lên giữa lòng Giáo Hội nguồn nước thánh tẩy. Xin cho dòng nước này được thấm nhuần Thần Khí của Ðức Kitô, để nhân loại Chúa đã dựng nên theo hình ảnh Chúa được thanh tẩy khỏi mọi vết nhơ con người cũ và tái sinh làm người mới nhờ nước và Thánh Thần.
 Linh mục có thể nhúng cây nến Phục Sinh vào nước một hoặc ba lần và đọc:
Lạy Chúa, nhờ công ơn Con Một Chúa, xin cho nước này đầy tràn sức mạnh của Chúa Thánh Thần để những ai được dìm trong nước thánh tẩy này nghĩa là cùng chết và chịu mai táng với Ðức Kitô, cũng được sống lại với người để hưởng phúc trường sinh. Người hằng sống và hiển trị muôn đời".
- Lặp lại lời hứa khi Rửa Tội - Rảy nước thánh  - Lời nguyện cộng đoàn.

4.4. Phụng Vụ Thánh Thể

4.5. Lượt tóm nghi thức Thứ Bảy Vọng Phục Sinh

Phần 1: Làm phép lửa mới
Đến giờ lễ mọi người tập trung tại nơi làm phép lửa. Nếu có lời dẫn thì đọc lời dẫn trước các phần Phụng Vụ.
+ Tắt hết các đèn trong nhà thờ, Chủ tế và giúp lễ tiến đến nơi đã dọn sẵn đống lửa.
+ Linh mục đọc Lời mời gọi đầu số 8.
+ Lời nguyện làm phép lửa mới số 9 X
+ Người giúp lễ cầm nến Phục sinh đứng trước chủ tế. Chủ tế dùng cây bút vẽ hình Thánh Giá trên nến, rồi viết chữ Alpha phía trên, và chữ Ômêga phía dưới hình Thánh Giá, đoạn viết bốn con số chỉ năm đó ở bốn góc Thánh Giá, vừa viết vừa đọc những lời sau đây:

1. Đức Kitô vẫn là một, (vẽ đường dọc)
2. Hôm qua cũng như hôm nay (vẽ đường ngang)
3. Là An-pha và Ô-mê-ga, (viết chữ A trên Thánh Giá)
4. Nghĩa là khởi nguyên và tận cùng (viết chữ Ô-mê-ga phía dười Thánh Giá)
5. Người làm chủ thời gian (viết số đầu của năm nơi góc trái phía trên Thánh Giá)
6. Và muôn thế hệ (viết số thứ hai của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá)
7. Vạn tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (viết số thứ ba của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá)
8. Vạn vạn tuế. A-men. (viết số thứ tư của năm nơi góc phải phía dưới Thánh Giá)


           A
        2     0
        1     9



           Ω
                  
 














+ Vẽ hình Thánh Giá và ghi số năm xong, chủ tế gắn 5 hạt đinh hương theo hình Thánh Giá trên nến phục sinh, vừa gắn vừa đọc như sau:

1. Vì năm vết đinh thương
2. Chí thánh và vinh hiển
3. Xin Chúa Kitô
4. Gìn giữ
5. Và bảo vệ chúng ta. Amen.

      
        1
    4  2  5              
        3



- Giúp lễ lấy than lửa vào bình hương.
+ Chủ Tế lấy lửa mới thắp nến phục sinh và nói:
Xin Đức Kitô, Đấng Phục Sinh vinh hiển, chiếu giãi ánh sáng của Người để phá tan bóng tối đang bao phủ lòng trí chúng ta.
+ Kiệu nến Phục Sinh
+ Chủ Tế cầm nến Phục Sinh nâng cao và hát: "Ánh sáng Chúa Kitô".
- Cộng đoàn thưa “Tạ Ơn Chúa”.
+ Đến giữa nhà thờ chủ tế hát lần thứ hai thì đốt nến cho cộng đoàn. Đến cung thánh hát lần thứ ba. Đặt nến Phục Sinh lên giá, xông hương.
+ Công bố Tin Mừng Phục Sinh.
Phần 2: Phụng vụ Lời Chúa
- Cộng đoàn tắt nến ngồi nghe Lời Chúa (có thể dẫn trước các bài đọc)
- Sau mỗi bài đọc, Ca đoàn hát Đáp Ca và Chủ tế đọc lời nguyện (đứng).
+ Sau khi hát xong bài Đáp Ca cuối cùng của các bài Cựu Ước và sau khi linh mục đọc Lời Nguyện. Chủ Tế đứng xướng kinh Vinh Danh.
- Linh mục xướng Kinh Vinh Danh (có rung chuông), thắp các nến trên bàn thờ, mở hết các điện trong nhà thờ, chưng hoa trên bàn thờ, cung thánh.
- Sau kinh Vinh Danh, linh mục chủ tế đọc Lời Nguyện.
- Bài đọc Thánh Thư.
- Sau bài Thánh Thư, bắt đàn cho linh mục xướng ALLELUIA (3 lần)
- Sau khi linh mục xướng Alleluia, Ca đoàn đứng hát Đáp Ca: Tv117 : Cộng đoàn Đáp: Alleluia
- Sau bài Đáp Ca thì đọc Phúc Âm và giảng. (có xông hương Phúc âm)
Phần 3: Phụng vụ Thánh Tẩy
- Sau bài giảng đến phần Phụng Vụ Thánh Tẩy, Linh mục đọc Lời mời gọi (chọn 1 trong hai lời mời gọi nếu không có người rửa tội thì đọc lời thứ hai)
- Sau lời mời gọi, (nếu có người Rửa tội thì hát Kinh Cầu Các Thánh).
- Đọc lời mời gọi xong L.m Chủ tế đọc lời nguyện làm phép nước. Hoặc sau kinh cầu các thánh thì đọc lời nguyện làm phép nước. (chọn 1 trong hai lời số 42 hoặc số 45)
- Linh mục Làm Phép Nước [và nghi thức Rửa Tội + Thêm Sức (nếu có dự tòng)]
- Lập lại lời tuyên hứa khi lãnh Bí Tích Rửa Tội.
- Sau câu “Thưa Con Tin” cuối cùng, linh mục đọc Lời Nguyện.
- Sau lời nguyện, Ca đoàn hát, hoặc chủ tế xướng “Tôi đã thấy nước”- Linh mục rảy nước thánh trên dân chúng.
- Sau phần Rảy Nước Thánh, đến phần Lời Nguyện Giáo Dân (không có Kinh Tin Kính) - (nếu có người dự tòng thì sắp xếp cho họ dâng lễ vật).
Phần 4: Phụng vụ Thánh Thể
Sau phần Lời Nguyện Giáo Dân, hát Ca Dâng Lễ và Thánh lễ tiếp tục như thường.

5. Cơ cấu nhập đạo của người lớn

Thánh Bộ phượng tự ban hành nghi thức gia nhập đạo cho người lớn ngày 6/1/1972 (số 6):
"Trong con đường này, ngoài thời gian tìm hiểu và trưởng thành hóa, người dự tòng phải tiến dần từng "giai đoạn", như tiến qua cửa hoặc như tiến lên bậc thang.
1. Giai đoạn 1 là khi đương sự khởi đầu việc trở lại, muốn tòng giáo và được Hội Thánh nhận làm người dự tòng.
2. Giai đoạn 2 là khi đương sự đã có lòng tin khá vững chắc, và đã gần xong thời dự tòng, được chấp nhận để tích cực chuẩn bị lãnh nhận các bí tích.
3. Giai đoạn 3 là khi đương sự đã được chu đáo chuẩn bị về mặt thiêng liêng, lãnh nhận các bí tích để bắt đầu cuộc đời Kitô hữu.
Như vậy ta thấy có 3 giai đoạn, tức ba bậc hay ba cửa, như ba tác động quan trọng của việc gia nhập đạo. Mỗi giai đoạn được biểu thị bằng một nghi lễ phụng vụ: Giai đoạn 1 có nghi lễ tiếp nhận người dự tòng, giai đoạn 2 có nghi lễ tuyển chọn, giai đoan 3 có việc cử hành các Bí tích Khai tâm Kitô giáo.
số 7:
Nhưng các giai đoạn đòi hỏi phải có những thời gian tìm hiểu và trưởng thành hóa hoặc nhờ những thời gian này mà chuẩn bị:
1. Thời chuẩn dự tòng đòi hỏi phía đương sự phải sẵn sàng từ bỏ tội lỗi, có ý muốn thực sự theo Chúa Kitô, tìm hiểu về Tin Mừng, và hướng tới việc xin lãnh nhận Bí Tích Rửa tội. Về phía Hội thánh là lúc khởi giảng Phúc Âm (số 10) và trong suốt thời gian này , các vị chủ chăn phải nâng đỡ những thành viên bằng những lời cầu nguyện thích hợp (số13); thời gian này sẽ chấm dứt khi đương sư gia nhập bậc dự tòng.
2. Thời dự tòng bắt đầu từ khi nhập bậc dự tòng và có thể kéo dài nhiều năm, là thời gian học hỏi đạo lý và các nghi lễ liên hệ đến đương sự. "Nghi lễ Nhận làm người dự tòng được coi là rất quan trọng, vì chưng lúc đó các đương sự lần đầu tiên công khai họp lại, bày tỏ cho Hội Thánh biết ý muốn của họ, đồng thời Hội Thánh thực hiện chức vụ tông đồ mà tiếp nhận những người muốn trở thành chi thể của Hội Thánh. Chúa sẽ rộng ban ơn thánh cho họ, khi họ côn gkhai bày tỏ ý muốn của họ bằng cuộc cử hành này và khi tiếp nhận và thánh hiến họ lần đầu tiên được Hội Thánh chứng giám" (số 14). Nghi lễ tiếp nhận thường cử hành vào Chúa nhật đầu tháng 10. Thời gian này sẽ kết thúc trong ngày tuyển chọn.
3. Thời gian thanh tẩy và soi sáng, thường bắt đầu vào chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, mùa chuẩn bị tham dự những nghi thức lễ trọng Phục Sinh và lãnh nhận các bí tích.
- Thời gian này có nghi lễ Tuyển chọn, tức là chọn lựa và tiếp nhận những người dự tòng. "Thời kỳ thanh tẩy và soi sáng là giai đoạn thứ hai trong việc nhập đạo nhầm ráo riết chuẩn bị tinh thần và tâm hồn. Trong giai đoạn này, Hội Thánh thực hiện nghi lễ Tuyển Chọn, tức là chọn lựa và tiếp nhận những người dự tòng nào đã được chuẩn bị tương xứng để được tham dự vào cuộc cử hành các bí tích nhập đạo sắp tới. Gọi là TUYỂN CHỌN, vì các việc Hội Thánh tiếp nhận dựa vào sự tuyển chọn của Thiên Chúa mà Hội Thánh hành động nhân danh Người; cũng còn gọi là nghi lễ GHI DANH, vì các thỉnh nhân ghi tên mình vào sổ những người đã được tuyển chọn để nên bảo chứng cho sự trung thành". (số 22).
- Nghi lễ khảo hạch và trao kinh: Nhằm để chuản bị kỹ lưỡng tâm hồn, bồi dưỡng thiêng liêng, vừa hướng về việc thanh tẩy tâm tình nhờ việc xét mình và sám hối, vừa để soi sáng tâm tình do sự nhìn biết Chúa Kitô Cứu Thế cách sâu rộng hơn (x. số 25).
a/ "Nghi lễ KHẢO HẠCH được tổ chức long trọng trong các chúa nhật nhằm hai mục tiêu nói trên, nghĩa là để giải bày những gì là yếu đuối, là bệnh hoạn, là xấu xa trong tâm hồn những người đã được tuyển chọn hầu chữa cho lành mạnh; và cũng để khám phá những gì là tốt đẹp, là mạnh mẽ, là thánh thiện trong tâm hồn họ hầu làm cho vững mạnh hơn. Vì nghi lễ khảo hạch nhằm giải thoát khỏi tội lỗi và ma quỷ, đồng thời làm cho họ vững mạnh trong Chúa Kitô, Người là đường, là sự thật và là sự sống của những người đã được tuyển chọn". (số 25)
b/ "Với nghi lễ TRAO KINH, Hội Thánh nhằm trao cho những người đã được tuyển chọn những tại iệu cổ kính về đức tin và việc cầu nguyện, đó là KINH TIN KÍNH và KINH LẠY CHA. Mục đích là để soi sáng họ. Con mắt họ sẽ nhờ đức tin và niềm hân hoan thúc đẩy, tìm hiểu trong kinh Tin Kính tất cả những việc trọng đại của Chúa đối với phần rỗi nhận loại. Trong kinh Lạy Cha, họ sẽ nhận ra cách sâu rộng hơn tinh thần mới của con cái Chúa, với tinh thần này họ sẽ gọi Chúa là Cha, nhất là khi tập họp tham dự Thánh Lễ". (số 25)
Số 26:" Để chuẩn bị gần lãnh nhận các Bí Tích:
1. Hãy bảo người được tuyển chọn biết rằng trong Thứ Bảy Tuần Thánh, họ hãy cố gắng gác lại những công việc thường ngày để dành thời giờ cầu nguyện, tĩnh tâm và giữ chay tùy sức họ.
2. Cũng trong ngày đó, nếu có cuộc họp những người đã được tuyển chọn, thì cũng có thể cử hành một vài nghi lễ chuẩn bị gần, thí dụ: Nghi lễ đọc KINH TIN KÍNH, nghi lễ "Hãy mở ra", chọn tên thánh và có thể xức dầu dự tòng.
c/ Cử hành các bí Tích gia nhập đạo (giai đoạn 3 trong tiến trình gia nhập đạo)
4. Thời gian thứ tư: là thời kỳ nhiệm huấn bao gồm tất cả mùa Phục Sinh. Tức là thời gian hưởng nghiệm để thu lượm kết quả, đồng thời để thắt chặt tình giao hảo và giây liên kết với cộng đồng tín hữu.
"Vì tính chất hiệu lức riêng của thời kỳ này là do sự hưởng nghiệm và cá nhân về các nhiệm tích cũng như về cộng đồng, nên điểm chính yếu của nhiệm huấn  là những Thánh Lễ mà phụng vụ thường gọi là THÁNH LỄ CẦU CHO NHỮNG TÂN TÒNG, tức là những Thánh Lễ các Chúa Nhật Phục Sinh, vì chưng trong những Thánh Lễ này, ngoài việc cộng đồng tập họp và tham dự các mầu nhiệm, nhưng người tân tòng còn gặp được, nhất là trong năm A sách Bài Đọc, những bài đọc đặc biệt xứng hợp với họ. Bởi đấy tất cả công đọng địa phương được mời gọi tham dự những thánh lễ này cùng với các tân tòng và các người đỡ đầu của họ, và cũng có thể dùng bản văn các Thánh Lễ đó cả khi việc nhập đạo được cử hành ngoài các mùa" (Số 40)
Vậy có 4 thời gian liên tiếp:
- Thời chuẩn dự tòng có đặc tính là khởi giảng Phúc Âm
- Thời dự tòng nhằm học giáo lý đầy đủ.
- Thời thanh tẩy và soi sáng nhằm tích cực chuẩn bị về mặt thiêng liêng.
-Thời nhiệm huấn biểu lộ bằng việc hưởng nghiệm các Bí tích và đời sống cộng đồng.

6. NGHI THỨC GIA NHẬP ĐẠO CHÚA VÀ RỬA TỘI NGƯỜI LỚN

Trích Nghi Thức Gia Nhập Kitô giáo của người lớn, Ủy Ban Giám mục về Phụng vụ xuất bản, Sàigòn 1974, trang 38.

6.1. Giai đoạn 1

NGHI THỨC NHẬN LÀM NGƯỜI DỰ TÒNG

(Cử hành vào Chúa Nhật đầu tháng Mười).
Nghi Lễ mở đầu
Các thỉnh nhân với người bảo lãnh (đỡ đầu) và cộng đồng tín hữu hội lại ở tiền đường nhà thờ.
Chủ tế mặc phẩm phục thánh lễ, tới chào và nói đôi lời với các thỉnh nhân, người bảo lãnh và cộng đồng về niềm vui của Hội thánh khi tiếp nhận những người muốn theo Chúa...
Chủ lễ (CL): Gọi tên từng người theo danh sách...
Thỉnh nhân (TN): Có mặt.
CL: Anh chị em xin điều gì cùng Hội thánh Chúa?
TN: Con xin đức tin.
CL: Đức tin sinh ơn ích gì cho anh chị em?
TN: Đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.
CL: Tất cả mọi người sinh ra ở đời đều được Chúa soi sáng. Qua thụ tạo, Chúa tỏ cho thấy những sự vô hình của Người, để nhân loại biết cảm tạ Đấng Tạo hoá. Anh chị em đã theo ánh sáng Người, nên giờ đây Người rộng mở con đường Phúc âm: để khi nhìn biết Chúa hằng sống, Đấng đã thực sự nói với loài người, anh chị em đặt nền tảng đời sống siêu nhiên; khi tin tưởng vào thượng trí của Người, anh chị em bước đi trong ánh sáng Chúa Kitô, và khi hết lòng tin tưởng vào Người, anh chị em ngày càng phó thác đời sống mình nơi Người. Đó là con đường đức tin mà Chúa Kitô sẽ dẫn đưa anh chị em trong tình yêu mến, để anh chị em được sống đời đời. Vậy nhờ Chúa hướng dẫn, hôm nay anh chị em đã sẵn sàng bước vào con đường đức tin đó chưa?
TN: Con sẵn sàng.
CL: (nói với người bảo lãnh): Anh chị em bảo lãnh, giờ đây anh chị em giới thiệu những thỉnh nhân này với chúng tôi, cũng như tất cả mọi người đứng quanh đây, anh chị em có sẵn lòng giúp đỡ những người này tìm gặp và bước theo Chúa Kitô không?
Mọi người bảo lãnh: Chúng con sẵn lòng giúp họ.
CL: Lạy Chúa Cha nhân từ, chúng con cảm tạ Cha vì những tôi tớ Cha đây, nhờ ơn Cha kêu gọi thúc đẩy bằng nhiều cách, họ đã tìm kiếm Cha, và hôm nay trước mặt chúng con, họ đáp lại tiếng Cha kêu gọi. Vậy lạy Cha, mọi người chúng con ngợi khen và chúc tụng Cha.
Mọi người: Lạy Cha, chúng con ngợi khen và chúc tụng Cha.
CL: Anh chị em thân mến, anh chị em đã chấp nhận đời sống và niềm hy vọng nơi Chúa Kitô, giờ đây, để làm cho anh chị em trở thành người dự tòng, các người bảo lãnh sẽ ghi dấu Thánh giá Chúa Kitô trên trán anh chị em (Chủ lễ làm dấu thánh giá trên mỗi người, các người bảo lãnh ghi dấu Thánh giá trên trán người mình đỡ đầu).
CL: Chúng ta hãy cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Cha Toàn năng, Cha đã dùng thánh giá và mầu nhiệm phục sinh của Con Cha mà ban sự sống cho dân Cha, chúng con nài xin Cha ban cho các tôi tớ Cha mà chúng con đã ghi dấu Thánh giá, khi bước theo chân Đức Kitô, biết nắm giữ nguồn sinh lực Thánh giá bằng đời sống, và biểu lộ nguồn sinh lực ấy bằng hành động. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Mọi người: Amen.
CL: Xin mời anh chị em tiến vào thánh đường để cùng với chúng tôi tham dự bàn tiệc Lời Chúa.
(Mọi người tiến vào thánh đường, ca đoàn hát ca nhập lễ
Chủ lễ đọc lời nguyện, bỏ kinh Thương xót và Vinh Danh)

Lời nguyện giáo dân

Cầu nguyện cho các người Dự Tòng
Chủ Lễ: Chúng ta hãy chung vui với các anh chị em dự tòng, vì nhờ Chúa nhân lành dẫn đưa, họ đã qua một quãng đường dài để tiến tới ngày hôm nay. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các anh chị em này vượt qua những quãng đường dài còn lại, để tham dự đầy đủ vào đời sống Công giáo như chúng ta.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha trên trời mạc khải cho họ Đấng Kitô của Người mỗi ngày một hơn. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ được thành tâm bền chí tuân theo trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ trong khi theo đường lối Chúa, được hưởng nhờ sự nâng đỡ thành tâm và liên tục của cộng đồng Kitô hữu. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ được tìm thấy nơi cộng đồng chúng ta sự đồng tâm và tinh thần bác ái dồi dào. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ và cho chúng ta mỗi ngày được biết cảm thông hơn trước những nhu cầu của nhân loại. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho họ được thực sự xứng đáng khi lãnh nhận phép rửa, bí tích tái sinh và canh tân của Chúa Thánh Thần. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho Đức Giáo hoàng T..., hàng giáo phẩm trong Hội thánh được mạnh mẽ, yêu thương dẫn dắt đoàn chiên Chúa khắp nơi. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho thế giới được bình an, cho tổ quốc Việt nam trường tồn, cho cộng đoàn chúng ta đoàn kết thương yêu nhau hơn. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban ơn lành cho mỗi người trong giây phút âm thầm này... Chúng con cầu xin Chúa
Chủ Lễ: Chúng ta hãy cầu nguyện,
Lạy Chúa là Đấng Sáng tạo muôn loài, chúng con nài xin Chúa đoái nhìn các tôi tớ Chúa đây là những người được nhận vào số dự tòng hôm nay, mà ban cho họ lòng sốt sắng, niềm hoan hỉ cậy trông, và hằng tôn vinh Danh Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn họ tới giếng nước tái sinh, để cùng với các tín hữu Chúa sống cuộc đời phong phú, họ được phần thưởng muôn đời như Chúa đã hứa ban.
Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

6.2.  Giai đoạn 2

NGHI LỄ TUYỂN CHỌN  GHI DANH CHÍNH THỨC

 (Cử hành vào lễ Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, sau bài giảng, Lời bảo số 140)
(Trích Nghi Thức Gia nhập Kitô Giáo của Người Lớn, Ủy ban Giám mục về Phụng vụ xuất bản, Sài gòn 1974 trang 74)
(Trong nghi lễ này, sau khi đã nghe lời chứng của người đỡ đầu và người dạy giáo lý, và dựa vào quyết tâm của những người dự tòng, Hội thánh xét đoán về tình trạng chuẩn bị của họ mà quyết định có nên cho họ chịu các bí tích "vượt qua" hay không.
Nghi lễ tuyển chọn kết thúc thời kỳ dự tòng, bước sang thời kỳ tuyển chọn, đòi mỗi người ý chí cương quyết hơn, tin tưởng mãnh liệt hơn, theo Chúa Kitô cách quảng đại hơn.

GIỚI THIỆU CÁC THỈNH NHÂN

(Giảng xong bài giảng liên quan đến các dự tòng và cộng đồng tín hữu, người dạy giáo lý hay đại diện cộng đồng trình bày như sau:
Giáo lý viên: Kính thưa cha, lễ trọng vượt qua sắp đến, nhờ ơn Chúa, nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của cộng đồng nâng đỡ, những người dự tòng đây khiêm tốn xin được chấp nhận cho tham dự các Bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể sau khi được chuẩn bị đầy đủ và cử hành những nghi lễ khảo hạch.
Chủ lễ: Xin mời tất cả những người sắp được tuyển chọn cùng với các người đỡ đầu tiến lên.
(Giáo lý viên gọi tên từng người, người được gọi thưa : Có mặt, rồi tiến lên cùng với người đỡ đầu)
Chủ lễ: Giờ đây Hội thánh Chúa muốn biết chắc những người dự tòng này có xứng đáng được nhận vào sổ những tuyển nhân hầu mừng lễ trọng vượt qua sắp tới hay không.
(nói với những người đỡ đầu:
Bởi đấy, xin ông bà, anh chị em đỡ đầu làm chứng: Những người dự tòng này có trung tín nghe lời Chúa do Hội Thánh loan truyền không?
Những người đỡ đầu: Thưa họ có trung tín nghe.
Chủ lễ: Họ đã bắt đầu sống trước mặt Chúa và tuân giữ lời đã tiếp nhận chưa?
Những người đỡ đầu: Thưa họ đã bắt đầu.
Chủ lễ: Họ có chia sẻ đời sống huynh đệ và cầu nguyện không?
Những người đỡ đầu: Thưa có.
Chủ lễ: Trước mặt Chúa, ông bà anh chị em đỡ đầu xét những thỉnh nhân này có xứng đáng để được chấp nhận cho chịu các Bí tích gia nhập Kitô giáo không?
Những người đỡ đầu: Thưa chúng con xét rằng họ xứng đáng.

THẨM VẤN CÁC THỈNH NHÂN

Chủ lễ: Anh chị em dự tòng thân mến, giờ đây tôi có đôi lời cùng anh chị em. Các người đỡ đầu, các người dạy giáo lý đều làm chứng tốt cho anh chị em. Dựa vào thiện ý của những người đó, Hội thánh nhân danh Chúa Kitô mời anh chị em lãnh nhận các Bí tích vượt qua. Vậy từ lâu anh chị em đã nghe tiếng Chúa Kitô, thì bây giờ anh chị em hãy thành thật trả lời trước mặt Hội thánh. Anh chị em có muốn lãnh nhận các Bí tích nhập đạo của Chúa Kitô là phép Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể không?
Các người dự tòng: Thưa chúng con muốn.
Chủ lễ: Vậy xin anh chị em vui lòng cho biết quí danh.
(Các thỉnh nhân đứng tại chỗ lần lượt nói tên mình, hoặc nếu đông quá thì Giáo lý viên đã xướng tên: Thưa đây là danh sách các thỉnh nhân, và đưa trình bản danh sách).

NGHI LỄ TUYỂN CHỌN

Chủ lễ: Anh chị em đã được tuyển chọn, anh chị em sẽ bắt đầu được tham dự vào các mầu nhiệm thánh trong lễ (Vọng) Phục sinh sắp tới.
Các người dự tòng: Tạ ơn Chúa.
Chủ lễ: Giờ đây nhiệm vụ của anh chị em cũng như của tất cả chúng tôi là nhờ Chúa nâng đỡ mà hiến dâng lòng trung tín của anh chị em lên Chúa là Đấng trung thành với lời Người kêu gọi. Anh chị em hãy hết lòng cố gắng hiểu biết đầy đủ việc tuyển chọn của anh chị em.
Chủ lễ nói với những người đỡ đầu: Ông bà anh chị em đỡ đầu thân mến, các người dự tòng mà anh chị em đã làm chứng, anh chị em hãy phó thác họ cho Chúa, hãy dùng những hành động huynh đệ và gương sáng mà tiếp tục giúp đỡ họ cho đến ngày họ lãnh nhận các Bí tích ban sự sống của Chúa.
(Các người đỡ đầu đặt tay phải trên vai các thỉnh nhân)

LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN
Chủ lễ: Anh chị em thân mến, đang khi đón mừng mầu nhiệm cứu độ của Đấng đã chịu khổ nạn và phục sinh, hôm nay chúng ta bước vào mùa Chay. Các tuyển nhân đã được chúng ta hướng dẫn tới tham dự những mầu nhiệm vượt qua, đang trông chờ chúng ta đổi mới để noi gương. Vì vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ và cho chúng ta, để nhờ việc khuyến khích lẫn nhau, chúng ta trở nên xứng đáng lãnh nhận các ơn vượt qua.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các người dự tòng nhớ ngày được tuyển chọn mà luôn luôn hân hoan vì ơn phúc bởi trời. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người dự tòng biết lợi dụng thời gian thuận tiện mà chấp nhận những khó khăn trong việc từ bỏ, và cùng chúng ta thánh hoá bản thân. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa thương giúp những người dạy giáo lý biết bày tỏ cho những người đang tìm Chúa cảm thấy lời Chúa ngọt ngào. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người đỡ đầu biết bày tỏ cho các người dự tòng thấy việc thực thi Phúc âm trong đời tư và trong đời sống xã hội. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các gia đình người dự tòng, để đừng ai ngăn trở, nhưng còn giúp họ theo ơn Chúa Thánh thần thúc đẩy. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho cộng đoàn chúng ta biết nêu gương bác ái và kiên tâm cầu nguyện trong mùa Chay này. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang còn nghi ngờ do dự, biết tin tưởng vào Chúa Kitô mà hiệp thông với chúng ta trong tình huynh đệ. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô, hàng giáo phẩm trong Hội thánh được mạnh mẽ sáng suốt chăn dắt đoàn chiên Chúa khắp nơi. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho thế giới được bình an, cho Tổ quốc Việt nam trường tồn, cho cộng đoàn chúng ta đoàn kết thương yêu nhau hơn và sốt sắng làm việc tông đồ. Chúng con cầu xin Chúa.
Xướng viên: Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban ơn lành cho  mỗi người trong mùa Chay này trong giây phút âm thầm... Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ lễ: Lạy Chúa Cha Toàn năng, Chúa đã muốn phục hồi mọi sự trong Đức Kitô và đưa nhân loại tới cùng Người. Xin đoái thương dẫn dắt các người Hội thánh đã tuyển chọn đây, và ban cho họ được trung thành với ơn kêu gọi đã lãnh nhận, để xứng đáng gia nhập nước Con Chúa, và được ghi dấu Chúa Thánh Thần mà Chúa đã hứa ban. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Tất cả: Amen.

6.3. Giai đoạn 3

CỬ HÀNH CÁC BÍ TÍCH NHẬP ĐẠO

(Cử hành trong lễ Vọng Phục sinh)
(Trích Nghi thức Gia nhập Kitô giáo của người lớn, Uỷ ban Giám mục về Phụng vụ Việt nam xuất bản, Sài gòn 1974 trang 140)

a/ CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH TẨY

(Sau bài giảng, các người sắp lãnh Bí tích Rửa tội và những người đỡ đầu tiến lại gần đứng chung quang giếng rửa tội.)
Lời nhắn nhủ của chủ lễ
Chủ lễ: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa thương đến các tôi tớ Chúa đây, đang xin lãnh Bí tích Rửa tội. Chính Người đã kêu gọi  và dẫn đưa họ tới giờ này, thì xin Ngươi ban cho họ ánh sánh và sức mạnh, để họ nhiệt tâm gắn bó với Chúa Kitô và tuyên xưng đức tin của Hội Thánh. Cũng xin Người ban Chúa Thánh Thần đến đổi mới họ, Đấng mà chúng ta sẽ thành khẩn nài xin xuống trên nước này.
Kinh cầu Các Thánh
(Có thể thêm vào tên thánh Bổn mạng thánh đường, và tên thánh Bổn mạng các người sắp lãnh Bí tích Rửa tội) 
Xin Chúa thương xót chúng con
Xin Chúa thương xót chúng con
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con
Xin Chúa thương xót chúng con
Xin Chúa thương xót chúng con
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời,
Cầu cho chúng con.
Thánh Micae Thiên thần của Thiên Chúa
Thánh Gioan Tẩy giả
Thánh Giuse
Thánh Phêrô và thánh Phaolô
Thánh Anrê
Thánh Gioan
Thánh nữ Maria Mađalena
Thánh Inhaxiô thành Antiôkia
Thánh Laurensô
Thánh Pepetua và Phêlixita
Thánh nữ Anê
Thánh Grêgôriô
Thánh Augutinô
Thánh Athanasiô
Thánh Basiliô
Thánh Martinô
Thánh Bênêđitô
Thánh Phanxicô và Đôminicô
Thánh Phanxicô Xavie
Thánh Gioan Maria Vianê
Thánh nữ Catarina thành Siêna
Thánh nữ Têrêxa thành Avila
Các Thánh Tử đạo Việt nam
(thêm tên thánh người được rửa tội...)
Các thánh nam nữ của Thiên Chúa
Xin Chúa tỏ lòng khoan dung,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Khỏi mọi sự dữ,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Khỏi phạm tội lỗi,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Khỏi chết muôn đời,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Vì mầu nhiệm Chúa làm người,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Vì Chúa chịu chết và sống lại,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Vì Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống,
Xin Chúa cứu chữa chúng con.
Chúng con là kẻ có tội
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Xin Chúa đoái thương tái sinh các tuyển nhân này nhờ ơn thánh phép Rửa tội,
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống,
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Lạy Đức Kitô,
Xin nghe lời chúng con.
Lạy Đức Kitô,
Xin nhận lời chúng con.
Lạy Đức Kitô,
Xin nhận lời chúng con.
Làm phép nước
(Chủ lễ hướng về giếng Rửa tội và đọc:
Lạy Chúa, nhờ các dấu hiệu của Bí tích, Chúa dùng quyền năng vô hình mà thực hiện hiệu quả lạ lùng, và bằng nhiều cách đã sửa soạn nước này là tạo vật của Chúa, để bày tỏ ân sủng Bí tích Rửa tội. Lạy Chúa, trong buổi sơ khai của thế gian, Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước, để ngay từ đó, chất nước đã mang sức thánh hoá. Lạy Chúa, trong chính nước hồng thủy, Chúa đã cho thấy hình ảnh ơn tái sinh, để nhờ mầu nhiệm cũng một thứ nước, chấm dứt các tính mê nết xấu, và khơi nguồn các nhân đức. Lạy Chúa, Chúa đã làm cho con cái Israel đi qua Biển đỏ ráo chân, để cho toàn dân được giải thoát khỏi ách nô lệ Pharaon, tiên báo một dân tộc mới, gồm những người đã được thanh tẩy. Lạy Chúa, Con Chúa đã được Gioan làm phép rửa trong sông Giođan và được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong. Khi bị treo trên thập giá, Người đã để nước cùng máu chảy ra từ cạnh sườn Người, và sau khi sống lại, Người đã truyền cho các tông đồ rằng:"Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần", vì vậy, xin Chúa đoái thương nhìn đến Hội Thánh Chúa, và khơi cho Hội Thánh nguồn nước rửa tội. Xin cho nước này mang lại ơn thánh của Con Chúa do Chúa Thánh Thần, để con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa, nhờ Bí tích Rửa tội, được tẩy sạch mọi vết nhơ tội xưa, đáng được sống lại bởi nước và Thánh Thần trong tuổi thơ ấu mới.
(Chủ lễ chạm tay vào nước và đọc tiếp:
Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa cho sức mạnh của Thánh Thần, nhờ Con Chúa, xuống trên giếng đầy nước này, để khi mọi người nhờ Bí tích Rửa tội, đã được an táng cùng Chúa Kitô hầu chết cho tội, thì cũng được phục sinh với Người trong sự sống. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Mọi người thưa: Amen.
Từ bỏ tà thần
 (Chủ lễ hỏi các thỉnh nhân:
- Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị em có từ bỏ tội lỗi không?
- Thưa từ bỏ.
- Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, anh chị em có từ bỏ những quyến rũ bất chính không?
- Anh chị em có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?
Tuyên xưng đức tin
- Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất không?
- Thưa tin.
- Anh chị em có tin Đức Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết, và đang ngự bên hữu Chúa Cha không?
- Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại, và sự sống vĩnh cửu không?
Nghi lễ Rửa Tội
(Người đỡ đầu đặt tay trên vai bên phải thỉnh nhân)

(Thánh) CHA (TÔI) RỬA (Con, ÔBACE) NHÂN DANH CHÚA CHA,
(đổ nước lần thứ nhất)
VÀ CHÚA CON,
(đổ nước lần thứ hai)
VÀ CHÚA THÁNH THẦN
(đổ nước lần thứ ba)
Xức Dầu Thánh
Nếu không cử hành Bí tích Thêm sức ngay thì chủ lễ xức dầu cho họ.
Chủ lễ đọc:
Thiên Chúa Toàn năng là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, đã tái sinh (Thánh,) bởi nước và Thánh Thần, và đã giải thoát (T) khỏi tội lỗi. Chính Người xức dầu cứu độ cho () để sau khi nhập đoàn với dân Người, (T) mãi mãi là chi thể của Đức Kitô, là tư tế, tiên tri và vương đế cho đến cõi sống muôn đời.
Thỉnh sinh thưa: Amen.
Chủ lễ thinh lặng xức dầu trên đỉnh đầu người đã được rửa tội.
Mặc áo trắng
Chủ lễ:
...(T) đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô, vậy (T) hãy nhận lấy chiếc áo trắng này, và hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, để (T) được sống muôn đời.
- Amen.
Trao nến sáng
Chủ lễ chạm vào cây nến phục sinh và nói:
Các người đỡ đầu hãy tiến lại trao đèn (nến) sáng cho người tân tòng.
(Người đỡ đầu thắp nến từ cây nến Phục sinh và trao cho người tân tòng)
Chủ lễ:
(T) đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, (T) hãy luôn sống như con cái sự sáng, để được bền vững trong đức tin, khi Chúa đến (T) xứng đáng ra nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời.
- Amen.

b/. CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÊM SỨC

Chủ lễ:
Anh chị em tân tòng thân mến, anh chị em đã được tái sinh trong Chúa Kitô, được trở nên chi thể và thành phần dân tư tế của Người, giờ đây (ace) còn phải lãnh nhận Chúa Thánh Thần đã ngự xuống tràn đầy trên chúng tôi. Chúa đã ban Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần, chính các Tông đồ và các Đấng kế vị lại ban cho những người đã được rửa tội.
Vậy anh chị em cũng lãnh nhận sức mạnh Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa đã hứa ban, để nhờ đó một khi trở nên giống Chúa Kitô hơn, (ace) làm chứng về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa và trở thành chi thể hoạt động của Hội Thánh, hầu xây dựng Nhiệm thể Chúa Kitô trong đức tin và đức mến.
Chủ lễ quay về phía giáo dân đọc tiếp:
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa Cha toàn năng đoái thương ban tràn đầy Chúa Thánh Thần xuống trên người tân tòng đây,để Chúa Thánh Thần dùng ơn hụê dồi dào của Người làm cho người tân tòng này nên vững mạnh, và xức dầu để người này nên giống Chúa Kitô Con Thiên Chúa.
(Thinh lặng cầu nguyện giây lát, đoạn Chủ lễ đặt hai tay trên thụ nhân và đọc:
Lạy Thiên Chúa toàn năng là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi, Chúa đã tái sinh tôi tớ Chúa đây bởi nước và Thánh Thần khi giải thoát tôi tớ Chúa khỏi tội lỗi, thì lạy Chúa, xin ban Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong người này; xin ban cho người này thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức. Xin ban cho người này ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
- Amen.
Thụ nhân lên trước mặt chủ lễ, người đỡ đầu đặt tay trên vai phải họ, chủ lễ nhúng đầu ngón tay cái vào dầu thánh rồi ghi hình thánh giá trên trán thụ nhân mà nói:
(T) HÃY LÃNH NHẬN ẤN TÍN ƠN CHÚA THÁNH THẦN
Thụ nhân: Amen.
- Bình an của Chúa ở cùng (T)
- Và ở cùng cha.

c/. CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ

(Bỏ kinh Tin kính, tiếp ngay Lời nguyện Giáo dân, sau đó người Tân Tòng mang của lễ lên bàn thờ. Người Tân tòng, người đỡ đầu, cha mẹ, vợ chồng và các người dạy giáo lý rước lễ hai hình: Mình và Máu Chúa)

 

CHƯƠNG IV

NGỪOI LÃNH NHẬN BÍ TÍCH VÀ THỪA TÁC VIÊN

CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY


GLHT số 1246: "Tất cả và chỉ những người chưa chịu phép Rửa, mới có khả năng lãnh nhận bí tích Rửa tôi"[19].
Như thế tất cả moị người là ai? Các nhà thần học Kinh Viện phân biệt người lớn và trẻ nhỏ. Người lớn phải cần điều kiện nào không? ý thức hay không ý thức?muốn hay không muốn? Còn trẻ em có thể rửa tội khi cha mẹ chúng không đồng ý không? Các bào thai thì có rửa tội không?

I. Giáo luật về Bí Tích Rửa Tội

Bí Tích Rửa Tội
Ðiều 849: Bí Tích Rửa Tội là cửa ngõ vào các Bí Tích. Sự lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội cách thực sự hay ít ra bằng nguyện ước là điều cần thiết cho phần rỗi. Bí Tích Rửa Tội giải thoát con người  khỏi tội lỗi, tái sinh họ làm con Chúa và kết nạp họ vào Giáo Hội, biến họ nên giống Chúa Kitô bằng ấn tích không thể xóa nhòa. Bí Tích này chỉ được ban hữu hiệu bằng việc rửa bằng nước nguyên chất kèm theo việc đọc đúng mô thức.

Chương I: Việc Cử Hành Bí Tích Rửa Tội

Ðiều 850: Phải ban Bí Tích Rửa Tội theo đúng nghi thức trong các sách phụng vụ đã được phê chuẩn, trừ khi trong trường hợp nhu cầu khẩn cấp, thì chỉ cần giữ những điều đòi buộc cho Bí Tích được hữu hiệu.
Ðiều 851: Việc cử hành Bí Tích Rửa Tội phải được chuẩn bị thích đáng. Vì vậy:
1. người lớn muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, phải được nhận vào lớp dự tòng và, tùy mức độ có thể, được hướng dẫn khai tâm Bí Tích qua nhiều giai đoạn khác nhau; dựa theo đúng nghi thức khai tâm do Hội Ðồng Giám Mục đã thích nghi cũng như các quy luật riêng do Hội Ðồng Giám Mục ban hành.
2. cha mẹ của nhi đồng sắp được nhận Bí Tích Rửa Tội, cũng như những người sẽ lãnh trách nhiệm đỡ đầu, phải được giáo huấn đầy đủ về ý nghĩa của Bí Tích này và về những bổn phận gắn liền với Bí Tích. Cha Sở, tự mình hay nhờ người khác, phải chăm lo huấn luyện đầy đủ các phụ huynh bằng những bài huấn dụ mục vụ, và kể cả bằng sự cầu nguyện chung, trong lúc hội họp nhiều gia đình và bằng cách đi thăm viếng họ khi nào có thể.
Ðiều 852: (1) Những điều quy định trong khoản luật về Bí Tích Rửa Tội người lớn, cũng phải được áp dụng cho tất cả những ai đã quá tuổi nhi đồng và biết xử dụng trí khôn.
(2) Kể cả trong vấn đề liên can đến Bí Tích Rửa Tội, người thiếu xử dụng trí khôn cũng được đồng hóa với nhi đồng.
Ðiều 853: Trừ trường hợp khẩn thiết, nước dùng khi ban Bí Tích Rửa Tội buộc phải được làm phép theo các quy luật của sách phụng vụ.
Ðiều 854: Bí Tích Rửa Tội được cử hành hoặc bằng cách dìm xuống nước, hoặc bằng cách đổ nước, tùy theo các quy luật của Hội Ðồng Giám Mục đã định.
Ðiều 855: Cha mẹ, người đỡ đầu và Cha Sở phải lo liệu để đừng đặt một tên không hợp với ý nghĩa Kitô giáo.
Ðiều 856: Mặc dầu có thể cử hành Bí Tích Rửa Tội vào bất cứ ngày nào, tuy nhiên, thường nên cử hành vào ngày Chủ Nhật, hay nếu có thể, vào đêm vọng Phục Sinh.
Ðiều 857: (1) Ngoài trường hợp cần thiết, nơi thích hợp để Rửa Tội là nhà thờ hay nhà nguyện.
(2) Theo luật, người lớn phải chịu phép Rửa Tội tại nhà thờ riêng của giáo xứ, nhi đồng tại nhà thờ xứ của cha mẹ, trừ khi có lý do chính đáng khuyên nhủ cách khác.
Ðiều 858: (1) Mỗi nhà thờ giáo xứ phải có giếng rửa tội, tuy vẫn duy trì quyền lợi hỗn nhập mà các nhà thờ khác đã thủ đắc.
(2) Ðể tiện lợi cho giáo dân, Bản Quyền sở tại, sau khi hội ý với Cha Sở, có thể cho phép hay ra lệnh đặt giếng rửa tội trong nhà thờ hay trong nhà nguyện khác nằm trong ranh giới của giáo xứ.
Ðiều 859: Nếu người chịu rửa tội, vì ở xa hay vì hoàn cảnh khác, gặp bất tiện lớn nếu đi đến hay được chở đến nhà thờ xứ hoặc nhà thờ hay nhà nguyện khác nói trong điều 858, triệt 2, thì có thể hay phải cử hành Bí Tích Rửa Tội trong một nhà thờ hay một nhà nguyện khác gần hơn, hay tại một nơi khác xứng đáng.
Ðiều 860: (1) Ngoài trường hợp cần thiết, không được cử hành Bí Tích Rửa Tội trong các nhà tư, trừ khi được Bản Quyền sở tại cho phép vì một lý do quan trọng.
(2) Nếu Giám Mục giáo phận không định thể khác, thì không được cử hành Bí Tích Rửa Tội trong nhà thương, trừ trường hợp cần thiết hay có lý do mục vụ khác đòi buộc.

Chương II: Thừa Tác Viên Bí Tích Rửa Tội

Ðiều 861: (1) Thừa tác viên thông thường của Bí Tích Rửa Tội là Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, miễn là giữ quy định của điều 530, số 1.
(2) Khi thừa tác viên thông thường vắng mặt hay bị cản trở, một giáo lý viên được Bản Quyền trao cho nhiệm vụ Rửa Tội sẽ cử hành Bí Tích Rửa Tội cách hợp pháp. Trong trường hợp cần thiết thì bất cứ người nào, với một chủ ý nghiêm chỉnh, cũng có thể cử hành. Các chủ chăn, đặc biệt Cha Sở, phải lo dạy các tín hữu biết cách rửa tội cho đúng.
Ðiều 862: Ngoại trừ trường hợp cần thiết, không ai được cử hành Bí Tích Rửa Tội trên lãnh thổ của người khác, dù rằng cho một người thuộc quyền của mình, nếu không có phép hợp lệ.
Ðiều 863: Việc Rửa Tội cho người lớn - ít ra đã chẵn mười bốn tuổi - nên được trình lên Giám Mục giáo phận để chính Ngài đích thân cử hành nếu xét thấy thuận lợi.

Chương III: Những Người Lãnh Bí Tích Rửa Tội

Ðiều 864: Tất cả và chỉ những người chưa được rửa tội mới có khả năng lãnh Bí Tích Rửa Tội.
Ðiều 865: (1) Ðể có thể được rửa tội, người lớn phải tỏ ý muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, phải được giáo dục đầy đủ về các chân lý Ðức Tin và các nghĩa vụ Kitô giáo, được thử luyện vào đời sống Kitô giáo qua thời gian dự tòng; ngoài ra, phải khuyên nhủ họ thống hối về tội lỗi của mình.
(2) Trong trường hợp nguy tử, người lớn có thể được rửa tội khi đã biết phần nào về các chân lý chính yếu của Ðức Tin, đã bày tỏ cách nào đó ý muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và hứa sẽ tuân giữ các điều răn của đạo công giáo.
Ðiều 866: Nếu không có lý do quan trọng cản trở, người lớn, liền ngay sau khi đã được rửa tội, cần được lãnh Bí Tích Thêm Sức, tham dự lễ Thánh Thể và rước lễ ngay đó.
Ðiều 867: (1) Cha mẹ có bổn phận lo cho con mình được rửa tội ngay trong những tuần lễ đầu tiên. Vào dịp sớm nhất sau ngày sinh, hay kể cả trước ngày sinh, cha mẹ hãy đến gặp Cha Sở để xin rửa tội cho con và xin được chuẩn bị kỹ lưỡng về Bí Tích.
(2) Nếu hài nhi gặp cơn nguy tử, phải rửa tội cho nó ngay, không chút trì hoãn.
Ðiều 868: (1) Ðể một nhi đồng được rửa tội cách hợp pháp, cần thiết phải:
1. có sự đồng ý của cha mẹ, ít là của một trong hai, hoặc của người thế quyền cha mẹ theo luật;
2. có hy vọng vững chắc rằng em bé sẽ được giáo dục trong đạo công giáo. Nếu hoàn toàn không có hy vọng, thì phải hoãn việc rửa tội dựa theo các quy định của luật địa phương, sau khi đã cho cha mẹ biết lý do.
(2) Trong cơn nguy tử, một nhi đồng con của cha mẹ công giáo, và thậm chí không công giáo, có thể được rửa tội cách hợp pháp, cho dù trái ý cha mẹ.
Ðiều 869: (1) Nếu hồ nghi không biết một người đã được rửa tội hay chưa, hoặc Bí Tích Rửa Tội đã ban có hữu hiệu hay không, và sự hồ nghi vẫn còn dù sau khi đã điều tra cặn kẽ, thì được ban Bí Tích Rửa Tội với điều kiện.
(2) Những người đã được rửa tội trong một giáo đoàn không Công Giáo, thì không cần rửa tội lại với điều kiện, trừ khi có lý do quan trọng hồ nghi về sự hữu hiệu của Bí Tích sau khi đã điều tra chất liệu và công thức dùng trong lúc ban Bí Tích Rửa Tội, cũng như đã lưu ý đến chủ ý của người trưởng thành được rửa tội và của thừa tác viên cử hành Bí Tích.
(3) Trong những trường hợp ở triệt 1 và 2 trên đây, nếu có hoài nghi về việc đã ban hoặc về sự hữu hiệu của Bí Tích Rửa Tội, thì chỉ cử hành lại cho người lớn khi đã trình bày giáo lý Bí Tích, và cho đương sự hay cha mẹ, nếu là nhi đồng, biết những lý do hoài nghi về việc hữu hiệu của Bí Tích Rửa Tội đã cử hành trước đây.
Ðiều 870: Ðứa trẻ bị bỏ rơi hay vô thừa nhận phải được rửa tội, trừ khi đã điều tra cẩn thận và biết chắc em đã được rửa tội rồi.
Ðiều 871: Bào thai bị sảy, nếu còn sống, thì phải được rửa tội, tùy theo mức độ có thể được.

Chương IV: Người Ðỡ Ðầu

Ðiều 872: Trong mức độ có thể được, phải liệu cho người sắp chịu Bí Tích Rửa Tội có một người đỡ đầu. Nhiệm vụ của người đỡ đầu là tham dự vào việc khai tâm Kitô giáo của người lớn sắp rửa tội; còn đối với nhi đồng sắp rửa tội, người đỡ đầu phải cùng với cha mẹ đem em nhỏ đến chịu rửa tội, rồi cộng tác với cha mẹ giúp em bé đã được rửa tội sống đời sống Kitô giáo cách xứng đáng và tận tụy chu toàn những bổn phận gắn liền với Bí Tích Rửa Tội.
Ðiều 873: Có thể chỉ nhận một cha đỡ đầu hoặc một mẹ đỡ đầu, hay cả cha và mẹ đỡ đầu.
Ðiều 874: (1) Ðể được nhận giữ vai trò đỡ đầu, cần:
1. phải được chọn lựa bởi chính người sắp được rửa tội, hay cha mẹ của đương sự hoặc người thế quyền cha mẹ; nếu không có cha mẹ và người thế quyền thì Cha Sở hay thừa tác viên rửa tội sẽ chọn lựa. Người được chọn phải có khả năng và chủ ý thi hành nhiệm vụ đỡ đầu;
2. đã được mười sáu tuổi trọn, trừ khi Giám Mục giáo phận ấn định tuổi khác, hoặc Cha Sở hay thừa tác viên thấy có thể nhận một ngoại lệ vì lý do chính đáng;
3. phải là người công giáo, đã chịu Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Mình Thánh, lại có đời sống xứng hợp với Ðức Tin và chức vụ sắp lãnh nhận;
4. không mắc một hình phạt giáo luật đã được tuyên kết và tuyên bố hợp lệ;
5. không phải là cha hay mẹ của người được rửa tội.
(2) Người nào đã được rửa tội nhưng thuộc về một giáo đoàn không Công Giáo, thì chỉ được nhận cùng với một người đỡ đầu Công Giáo, và với tư cách chứng nhân của Bí Tích Rửa Tội mà thôi.

Chương V: Bằng Chứng Và Ghi Chú Về Việc Ban Bí Tích

Ðiều 875: Người ban Bí Tích Rửa Tội phải liệu để, nếu không có người đỡ đầu, ít ra có một chứng nhân hầu có thể xác nhận việc ban hành Bí Tích Rửa Tội.
Ðiều 876: Nếu không gây thiệt hại cho ai hết, thì lời xác quyết của một chứng nhân đáng tin cậy hay lời thề của chính đương sự nếu họ lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội vào tuổi trưởng thành, cũng đủ để chứng minh việc Bí Tích đã được ban.
Ðiều 877: (1) Cha Sở nơi cử hành Bí Tích Rửa Tội phải cẩn thận ghi ngay vào sổ Rửa Tội: tên của người lãnh Bí Tích Rửa Tội, của thừa tác viên, của cha mẹ, của người đỡ đầu và nếu có, của cả người làm chứng; nơi và ngày rửa tội, ngày và nơi sinh.
(2) Nếu là đứa con của người mẹ không có chồng, thì sẽ ghi tên người mẹ vào sổ, khi có thể minh định công khai được mẫu hệ hay khi chính người mẹ tự ý xin ghi tên mình vào qua một đơn viết hay trước mặt hai người chứng. Tên của người cha cũng ghi vào sổ nếu phụ hệ được chứng minh do một văn kiện công chứng nào đó, hoặc chính đương sự tuyên bố trước mặt Cha Sở và hai người chứng. Trong những trường hợp khác, sẽ chỉ ghi tên trẻ được rửa tội mà không cần nhắc đến tên của người cha hay của cha mẹ.
(3) Nếu là đứa con nuôi, thì phải ghi tên cha mẹ nuôi và cả cha mẹ ruột theo quy tắc của các triệt 1 và 2, ít là khi đã ghi như vậy trong chứng thư dân sự tại địa phương; tuy nhiên phải lưu ý đến các chỉ thị của Hội Ðồng Giám Mục.
Ðiều 878: Nếu không phải Cha Sở hay người đại diện Cha Sở ban Bí Tích Rửa Tội, thì thừa tác viên Bí Tích Rửa Tội, bất cứ là ai, phải báo cho Cha Sở tại nơi cử hành Bí Tích Rửa Tội biết, để ngài ghi vào sổ Rửa Tội theo điều 877, triệt 1.

 

II. RỬA TỘI CHO NGƯỜI LỚN

Khi nói về Bí Tích, các nhà Thần học Kinh Viện phân biệt việc cử hành bí tích có thành sự hay không (valide)? Có trao ban cách hợp pháp và hữu hữu hiệu hay không (licite)? Như vậy thành sự và hợp pháp là hai điểm cần lưu ý khi ban phát bí tích. Để ban bí tích thành sự, cần người lãnh nhận phải có đủ lý trí, suy xét và biết phân biệt điều gì là linh thánh, điều gì là không. Người lãnh nhận phải có ý hướng (Intention) hay có ý chí, ý muốn lãnh nhận bí tích do Hội Thánh trao ban. Điều kiện ý muốn này là tất yếu, vì nói lên sự cộng tác của con người vào ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta xét những trường hợp sau:
- Bí tích Rửa Tội sẽ không thành sự khi trao ban trong sự ép buộc hay bất ngờ, đi ngược lại ý muốn của người lãnh nhận. Nếu yếu nhân tỏ sự đồng ý mặc dù có trong tình trạng quá sợ hãi đi nữa, yếu nhân đó cũng lãnh nhận ấn tín rửa tội. Đức Giáo Hoàng Innocentê III dạy như sau:
" Người bị ép buộc bằng bạo lực buộc phải nhận Bí Tích Rửa Tội để tránh những tàn tệ này, cũng như một người lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội vì ý xấu, họ lãnh nhận ấn tín bí tích, và vì đã muốn dưới điều kiện, chắc chắn là đã muốn không trọn vẹn, người ấy buộc phải giữ đức tin Kitô giáo".(DS 781)
- Trường hợp bí tích Rửa Tội được ban cho một người đang ngủ hay khi đã mất lý trí, thì việc thành sự của bí tich sẽ tùy thuộc vào ý muốn trước đó của họ. Nếu như trước đó họ đã tỏ ý công khai muốn lãnh nhận bí tích thì bí tích thành sự; ngược lại nếu như trước đó họ từ chối và vẫn giữ ý kiến như thế, thì bí tích không thành. ĐGH Innocentê III có ý kiến:
" Về những người đang ngủ và những người không sử dụng được lý trí, nếu như trước khi mất lý trí hay trước khi ngủ, họ luôn luôn luôn chóng đối, và người ta thấy được sự chông đối này, cả trong tình trạng họ được rửa tội, thì họ, thì họ không thể lãnh nhận ấn tín rửa tội được. Họ sẽ có nếu như trước đó họ là dự tòng hay đã tỏ ý muốn được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội; vì thế Hội Thánh cũng có thói quen rửa tội trong trường hợp khẩn thiết. Nghi thức bí tích sẽ ghi dấu ấn tín, chỉ vì không gặp ngăn trở do việc chống đối của ý chí" (DS 781).
- Trường hợp một người lãnh nhận bí tích Rửa Tội mà không có đức tin, nhưng chỉ vì tò mò, họ  sẽ lãnh nhận ấn tín rửa tội nhưng không có ơn thánh, thánh Tôma có ý kiến như sau:
"Để có thể lãnh nhận ấn tín, thật sự không cần thiết đến đức tin chân chính của người lãnh nhận cũng như kẻ ban, chỉ cần chu toàn các nghi thức cần thiết cho bí tích. Chỉ vì Bí Tích không phải là việc công chính của con người, cũng không phải là của người ban, nhưng là công việc của quyền năng Thiên Chúa" ( S. theol, III, q.68.a.8)
Ở đây vấn đề đặt ra là, cần phải có một đức tin rõ ràng muốn lãnh nhận bí tích hay chỉ là một đưc tin chung chung chỉ muốn những gì cần thiết để được cứu độ? Cả hai ý kiến này đều có thể chấp nhận, nhưng ý kiến thứ nhất được tôn trọng nhiều hơn: phải công khai nói lên ý muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Như thế đối với người lớn, để lãnh nhận Bí tích Rửa Tội cách hợp pháp và hữu hiệu, thì nguyên chỉ có ý muốn lãnh nhận thôi sẽ không đủ điều kiện. Cần phải có đức tin, đức cậy và nhất là sự sám hối về các tội đã phạm từ trước. Thiếu một trong ba điều kiện này, sẽ ngăn cản người được rửa tội không lãnh nhận được hồng ân thánh hóa và sự tha thứ tội lỗi. Theo thánh Tôma họ cần một sự sám hối nội tâm trước mặt Thiên Chúa: " một sự xưng thú nội tâm với Thiên Chúa, và cả việc xưng thú đại cương bên ngoài, cũng đủ để giúp cho người sắp lãnh nhận bí tích Rửa Tội bước vào con đường ngay thẳng và lãnh  nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa. Và như chúng tôi đã nói, không cần phải xưng thú tỉ mĩ bên ngoài" (S.theol.III,q.68.6)
+ Như thế để lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy hợp pháp và hữu hiệu, người tân tòng cần có hiếu biết, lý trí sáng suốt và tự do đón nhận đạo lý công giáo cũng như lòng thành tâm ước muốn trở nên con Chúa; đồng thời có thời gian thanh luyện giúp họ sám hối thật tâm những tội lỗi đã phạm trước đây. Nếu được giúp họ có thể thực hiện việc đền bù những thiệt hại do tội mình gây nên cho những người thân cận, tỏ dấu hối hận vì những gương xấu mình gây ra, phải dứt khoát với con đường tội lỗi mà mình đã đi trong quá khứ để làm một bước ngoặc mới trong hành trình tiến vào đời sống thiêng liêng.

III. RỬA TỘI CHO TRẺ NHỎ

1. Những ý kiến về việc rửa tội trẻ em vào thế kỷ XI và XII

- Các lạc giáo thế kỷ XI, XII như Vaudois, Cathares, Albigeois và nhất là nhóm Petrobrusiens, lấy theo tên của trưởng nhóm là Pierre de Bruys đều chống lại việc rửa tội cho trẻ em. Vì họ dựa vào câu Tin mừng Mc:" Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ" (mc 16,16), nên cho rằng đức tin và phép rửa cũng cần cho em bé để được cứu độ; thế nhưng các em bé không đủ khả năng để tin và tỏ rõ đức tin nên rửa tội cho các em bé là vô ích.
- Nhiều nhà thần học lên tiếng phản đối ý kiến trên; trong số đó có Đan Viện Phụ của Cluny là Pierre Đáng Kính. Ngài cho rằng những suy nghĩ như thế thật vô lý. Ngài dựa vào truyền thống Hội Thánh để cho thấy thực hành rửa tội cho các em đã có từ xưa và phổ biến trong Giáo Hội Tây Phương lẫn Đông Phương. Ngài cho thấy câu MC 16,16 là dành cho người lớn, còn về các em bé đức tin của Hội Thánh có thể thay thế cho đức tin của các em. Dù các em không có tội cá nhân nhưng bị ràng buộc trong tội nguyên tổ của Ađam, các em cũng cần được Đức Kitô cứu độ, dù các em không sử dụng được tự do của mình.
- Đức Giáo Hoàng Innocentê kết án nhóm Vaudois ngày 18/12/1208:
" Chúng tôi công nhận việc rửa tội cho trẻ em, và nếu các em chết sau khi được rửa tội, trước khi phạm bất cử tội nào, chúng tôi tuyên xưng và tin rằng các em được cứu độ. Và chúng tôi tin rằng mọi tội lỗi đều được tẩy sạch trong bí tích Rủa Tội, cả tội nguyên tổ lẫn tội mình làm" (DS 794).

2. Tầm quan trọng của việc rửa tội trẻ nhỏ

1. Với danh từ trẻ nhỏ (parvulorum) hoặc trẻ thơ (infantium) hiểu là những trẻ vì chưa tới tuổi dùng trí khôn, nên không có thể ttuyên xưng đức tin của mình.
2. Hội Thánh, vì đã được ban quyền thừa sai đi rao giảng Phúc Âm và rửa tội, nên ngay từ những thế kỷ đầu, đã rửa tội không những cho người lớn tuổi mà cho cả những trẻ nhỏ nữa. Vì căn cứ vào Lời Chúa: "Ai không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không thể vào Nước Trời" (Ga 3,5). Hội Thánh luôn luôn cho biết là không nên để trẻ nhỏ không được chịu phép rửa tội, vì lý do đương nhiên là chúng cần được rửa tội trong đức tin của chính Hội Thánh, đức tin mà cha mẹ, vú bõ (cha mẹ đỡ đầu) của chúng và những người khác hiện diện tuyên xưng. Vì những người này vừa đại diện cho toàn thể cộng đoàn các thánh và các tín hữu, tức là Mẹ Hội Thánh, người Mẹ toàn diện đã sinh hạ mọi người và từng người.
3. Nhưng để kiện toàn chân lý của Bí tích, trẻ nhỏ phải được giáo dục trong đức tin mà chúng ta đã nhận được khi chịu phép rửa tội: Nền tảng của việc này là chính Bí Tích mà chúng ta đã lãnh nhận. Việc giáo dục Kitô giáo mà các trẻ nhỏ có quyền được hấp thụ không có mục đích nào hơn là dẫn chúng dần dần đến việc học biết Thánh Ý Chúa trong Đức Kitô, để cuối cùng chính chúng có thể tuyên nhận đức tin mà trong đức tin đó, chúng đã được chịu phép rửa tội.

3. Nghi Thức Rửa Tội Cho Trẻ Nhỏ (Ordo  Baptismi Parvulorum (1969) ) 

1. Nghi thức đón tiếp

Mọi người tề tựu ở cửa chính nhà thờ hay một nơi nào đó trong nhà thờ nhưng không phải cung thánh hay giếng tửa tội. Linh mục hay phó tế mặc alba hoặc áo các phép với dây stola, tiến đến chào mọi người và ngỏ một vài lời nói lên niềm vui của buổi cử hành bí tích . Sau đó ngài đối thoại với cha mẹ trẻ nhỏ như sau:
Chủ sự: Ông bà (anh chị) đặt tên cho (các) cháu là gì?
Cha mẹ (hoặc từng cha mẹ, nếu có nhiều trẻ nhỏ): Thưa tên cháu là…
Chủ sự: Ông bà (anh chị) xin Hội Thánh cho cháu điều gì?
Tất cả các cha mẹ đáp một lần: Thưa xin phép Thánh tẩy
Chủ sự: Khi xin phép Thánh  tẩy cho con cái, ông bà (anh chị) lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái trong đức tin, để các cháu tuân giữ các giới răn là mến Chúa yêu người, như Chúa Kitô đã dạy chúng ta, ông bà có ý thức điều đó không?
Tất cả các cha mẹ đáp: Thưa ý thức
Chủ sự hỏi những người đỡ đầu: (Các) ông bà (anh chị) đỡ đầu có sẵn sàng giúp đỡ cha mẹ (các) cháu nhỏ này thi hành nhiệm vụ không?
Tất cả những người đỡ đầu đáp: Thưa sẵn sàng
Chủ sự nói với trẻ nhỏ sắp chịu Thánh tẩy: (Các) con thân mến cộng đoàn kitô hữu rất hoan hỷ đón nhận (các) con. Nhân danh cộng đoàn, cha (thầy) ghi dấu thánh giá cho (các) con, kế đó cha mẹ và người đỡ đầu cũng ghi dấu Chúa Kitô Cứu Thế cho (các) con.
Sau lời ngỏ trên, chủ sự thinh lặng ghi dấu thánh giá trên trán trẻ nhỏ, kế đó cha mẹ và nếu tiện cả người đỡ đầu cũng thinh lặng ghi dấu thánh giá trên trán cho các cháu.
Ghi dấu thánh giá xong, chủ sự mời mọi người tiến đến cung thánh hay một chỗ thuận tiện và trang trọng nào đó trong nhà thờ, tại đây sẽ cử hành Lời Chúa.

2. Cử hành lời Chúa

Khi đến nơi đã định, chủ sự đọc lời Chúa như sau:
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu
Khi ấy Chúa Giêsu tiến lại nói với các môn đệ rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. 
Đó là Lời Chúa.
Đọc Lời Chúa xong, chủ sự có thể giảng vắn tắt, kế đó mọi người đọc lời nguyện chung sau đây:

3. Lời nguyện chung:

Chủ sự: Anh chị em thân mến,Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại để ban cho chúng ta sự sống mới của Người. Trong tâm tình tin tưởng cậy trông chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:
Chủ sự hay một xướng viên: 
-  Nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô, xin Chúa đoái thương dùng bí tích Thánh tẩy để tái sinh và thâu nhận (những) trẻ nhỏ này vào Hội Thánh Chúa.
Mọi người đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con
- Nhờ ơn tái sinh trong các bí tích gia nhập đạo, xin Chúa cho những trẻ nhỏ này, trở nên môn đệ trung tín và chứng nhân của Tin Mừng giữa lòng thế giới. Đáp
-  Nhờ những hồng ân của Chúa nâng đỡ, xin Chúa cho cha mẹ và những người đỡ đầu luôn biết sống gương mẫu, và hằng chăm lo giáo dục đức tin cho con cái. Đáp
-  Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, xin Chúa làm cho ơn bí tích Thánh tẩy sinh hoa quả dồi dào trong đời sống chúng con. Đáp
-  Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời – Cầu cho chúng con
-  Thánh Giuse – Cầu cho chúng con
-  Thánh Gioan Tẩy giả - Cầu cho chúng con
-  Thánh Phêrô và thánh Phaolô- Cầu cho chúng con
(Có thể thêm tên các thánh bổn mạng của các trẻ nhỏ sắp lãnh nhận Thánh tẩy)
- Các thánh Nam Nữ của Thiên Chúa – Cầu cho chúng con

4. Lời nguyện trừ tà

Đọc lời nguyện chung xong, chủ sự đọc lời nguyện trừ tà sau đây
Chủ sự: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian để trục xuất quyền lực của Ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của nước Chúa. 
Chúng con nài xin Chúa làm cho (những) trẻ nhỏ này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn và được trở nên đền thờ của Chúa uy linh. Chúng con  cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Liền sau đó chủ sự sẽ đọc lời nguyện dự tòng. 
Còn việc xức dầu dự tòng được tuỳ ý thực hiện theo tập quán của mỗi nơi:
- Nếu không xức dầu dự tòng thì đọc như sau: xin Chúa Kitô Cứu Thế ban sức mạnh của Người cho (các) con, người hằng sống hiển trị đời đời.
- Nếu có xức dầu dự tòng thì đọc: Xin Chúa Kitô Cứu Thế ban sức mạnh của Người cho (các) con. Để biểu hiện ơn ấy, cha xức dầu cứu rỗi cho (các) con trong cũng một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng hằng sống hiển trị đời đời.
Đọc lời nguyện xong, chủ sự xức dầu dự tòng trên ngực mỗi trẻ nhỏ. Nếu có linh mục hay phó tế giúp và khi có đông trẻ nhỏ, các Ngài cũng có thể phụ xức dầu với vị chủ sự.

5. Cử hành Thánh Tẩy

Sau lời nguyện và xức dầu dự tòng, nếu có giếng thánh tẩy chủ sự và mọi người đến đó, bằng không, chủ sự làm phép nước tại cung thánh hoặc nơi thuận tiện, rồi cử hành Thánh tẩy như sau.
Chủ sự: Thiên Chúa dùng bí tích Thánh tẩy mà ban sự sống của Người cho những kẻ tin. Vì thế trong niềm tin tưởng chúng ta xin Người cho (các) trẻ nhỏ này được tái sinh bởi nước và Thánh Thần.
Chủ sự hướng về phía đặt vò nước hay bình nước:
5.1. Nếu nước chưa làm phép thì Lm. Chủ sự đọc:
+ Lạy Chúa là Cha chí thánh, từ mạch nước Thánh tẩy Chúa đã cho sự sống mới của Con Chúa tuôn trào lên trong chúng con.
- Mọi người đáp sau mỗi câu tung hô của chủ sự: Chúng con xin chúc tụng Chúa
+ Bởi nước và Thánh Thần, Chúa đoái thương quy tụ thành một dân riêng tất cả những đã chịu Thánh tẩy trong Con Chúa là Đức Giêsu Kitô. Đáp…
+ Chúa ban Thánh Thần của tình yêu vào lòng chúng con, để Người giải thoát, ban bình an và biến đổi chúng con nên sứ giả Tin Mừng của Chúa. Đáp…
Kế tiếp Lm. Chủ sự đọc lời nguyện làm phép nước sau đây:
Lời nguyện là phép nước
Lạy Chúa, Chúa đã gọi các tôi tớ Chúa đến lãnh ơn tái sinh trong đức tin của Hội Thánh. Xin đoái thương chúc lành + cho nước này để thanh tầy các tôi tớ nam nữ của Chúa, để họ được sống muôn đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

5.2. Nếu và Mùa Phục sinh đã có nước được làm phép rồi chủ sự đọc lời nguyện sau đây:

Lạy Chúa, Chúa đã gọi các tôi tớ Chúa đến  chịu bí tích Thánh tẩy trong đức tin của Hội Thánh. Nhờ mầu nhiệm nước thánh này, xin Chúa chúc lành bởi Thánh Thần để họ được sống muôn đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Sau lời nguyện làm phép nước, chủ sự mời gọi mọi người tuyên xưng đức tin.

Chủ sự: Anh chị em thân mến, là những bậc làm cha mẹ và người đỡ đầu, những trẻ nhỏ anh chị em đem đến sắp lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Do lòng Chúa yêu mến, các em sẽ được sự sống mới bởi nước và Chúa Thánh Thần. 
Anh chị em hãy để tâm giáo dục các em trong đức tin, để sự sống của Chúa khỏi thiệt thòi vì ảnh hưởng tội lỗi, như ngày càng nảy nở trong các em. 
Vậy nếu nhờ đức tin hướng dẫn, anh chị em sẵn sàng đảm nhận bổn phận ấy, thì anh chị em hãy nhớ lại bí tích Thánh tẩy của mình mà từ bỏ tội lỗi, tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô, như Hội Thánh tin, chính trong đức tin này mà các em được lãnh bí tích Thánh tẩy.
Từ bỏ tội lỗi
Chủ sự: Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị em có từ bỏ tội lỗi không?  - Mọi người: Thưa từ bỏ
Chủ sự: Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, anh chị em có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? - Mọi người: Thưa từ bỏ
Chủ sự: Anh chị em có từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?
-  Mọi người: Thưa từ bỏ
Tuyên xưng đức tin
+ Chủ sự: Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất không? 
Mọi người: Thưa tin
+ Chủ sự: anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha không?
Mọi người: Thưa tin
+ Chủ sự: Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cửu không?
Mọi người: Thưa tin
+ Chủ sự: Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Hội Thánh, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Mọi người: Amen
+ Chủ sự: Vậy ông bà (anh chị) có muốn cho (các) cháu được chịu Thánh tẩy trong đức tin của Hội Thánh mà tất cả chúng tôi vừa tuyên xưng với ông bà (anh chị) không?
Cha mẹ và người đỡ đầu: Thưa muốn
+ Rửa tội
Tuyên xưng đức tin xong, chủ sự đổ nước cho từng trẻ nhỏ với công thức sau đây:
T……….CHA RỬA CON, NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN
Nếu có đông trẻ nhỏ, và có sẵn linh mục hay phó tế phụ giúp, thì các ngài có thể phân chia và đổ nước cho từng trẻ nhỏ với công thức trên. Người đỡ đầu đặt tay phải trên vai người tân tòng hoặc giữ đầu đứa bé.

Khi đã đổ nước xong, sang phần diễn nghĩa, chủ sự đọc lời nguyện trước khi xức dầu thánh như sau:
Xức Dầu Thánh Christma
Chủ sự: Thiên Chúa toàn năng là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã giải thoát (các) con khỏi tội và tái sinh (các) con bởi nước và Chúa Thánh Thần, chính Người xức dầu cứu độ cho (các) con, để sau khi nhập đoàn với dân Người, (các) con mãi mãi làm chi thể của Đức Kitô là tư tế, tiên tri và vương đế cõi sống đời đời.
Tất cả mọi người: Amen
Rồi chủ sự thinh lặng xức dầu thánh (SC) lên đỉnh đầu mỗi trẻ nhỏ.
Mặc Áo Trắng
Sau đó trao áo trắng, chủ sự đọc: (Các) con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của (các) con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, (các) con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.
Đọc lời nguyện xong, chủ sự trao áo trắng cho từng trẻ nhỏ, trao xong, trao nến.
Trao nến sáng
Chủ sự đưa nến cháy sáng cho từng cha mẹ hoặc người đỡ dầu và đọc chung một lần:
Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô. Anh chị em là những bậc làm cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức là lo lắng cho (các) trẻ nhỏ này đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin. Nhờ đó khi Chúa đến, chúng được ra nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời.
Kết thúc
Nghi thức kết thúc bằng kinh lạy Cha và phép lành như sau:
1. Công thức 1:
Chủ sự: Anh chị em thân mến, (các) trẻ nhỏ này đã được tái sinh và trở nên con Thiên Chúa qua bí tích Thánh tẩy. Giờ đây trong tinh thần nghĩa tử chúng ta cùng dâng lên Chúa Cha lời kinh mà Chúa Giêsu đã dạy tất cả chúng ta:
Mọi người cùng đọc: Lạy Cha…
Chủ sự ban phép lành: Anh chị em thân mến, chúng tôi phó thác trao anh chị em vào tay Thiên Chúa là Cha toàn năng cùng Con Một Ngài và Chúa Thánh Thần. Xin Người ban muôn ơn cho anh chị em, gìn giữ đời sống anh chị em, để anh chị em và cả chúng tôi nữa bước đi trong ánh sáng đức tin và đạt đến hạnh phúc Người đã hứa. Và xin Thiên Chúa toàn năng là Cha và Con + và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Mọi người: Amen
Chủ sự: Chúc anh chị em ra về bình an
Mọi người: Tạ ơn Chúa (có thể hát một bài tạ ơn hoặc bài hát về Đức Mẹ)
2. Công thức 2:
+ Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ phép Rửa Tội, các em này được tái sinh, các em được gọi và thực sự là con Thiên Chúa. Trong phép Thêm Sức, các em sẽ được đầy tràn Chúa Thánh Thần. Các em sẽ tiến tới bàn thờ Chúa tham dự bàn tiệc của lễ tế Người, và ở giữa Hội Thánh, các em sẽ gọi Thiên Chúa là Cha. Giờ đây, nhân danh các em và trong tinh thần nghĩa tử mà tất cả chúng ta đã được, chúng ta cùng nhau cầu nguyện như Chúa Kitô đã dạy chúng ta.
Mọi người cùng đọc: Lạy Cha …
+ Chủ tế: Thiên Chúa toàn năng đã nhờ Con Ngài sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria mà làm cho các bà mẹ Công Giáo hân hoan; vì hy vọng vào đời sống bất diệt đã bừng lên trong con cái. Xin Chúa thương ban phúc lành cho (các) bà mẹ này. (Các) bà tạ ơn Chúa vì được Chúa cho sinh con, xin cho (các) bà cùng với con mình cảm tạ Chúa luôn mãi trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả: Amen.
+ Chủ tế: Xin Thiên Chúa toàn năng là Ðấng ban sự sống trần gian và Thiên Quốc, ban phúc lành cho (các) người cha của (những) trẻ nhỏ này. Xin cho (các) ông cùng với bạn mình, trở thành những người trước tiên, dùng lời nói và gương lành, làm chứng tá Ðức Tin cho con cái, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả: Amen.
+ Chủ tế: Xin Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã tái sinh chúng ta trong đời sống vĩnh cửu bởi nước Chúa Thánh Thần, rộng tay ban phúc lành cho các tín hữu của Người đây, để mọi nơi, mọi lúc, họ là phần tử sống động của dân Người. Xin ban bình an của Người cho tất cả những người có mặt nơi đây, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả: Amen. Chủ tế: Xin Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha và Chúa Con X và Chúa Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em. Tất cả: Amen.

4. Đức tin và Bí Tích Thánh Tẩy

- GLHT 1253: Bí Tích Rửa Tội là bí tích của đức tin[20]. Đức tin mang chiều kích cộng đoàn. Vì thế mỗi Kitô hữu chỉ có thể tin trong đức tin của Hội Thánh. Đức tin cần phải có để chịu phép rửa chưa phải là đức tin hoàn hảo và trưởng thành, nhưng là một khởi đầu cần tăng trưởng. Hội Thánh hỏi người dự tòng hoặc người đỡ đầu: Con đến xin gì cùng Hội Thánh? Và họ trả lời "Con xin đức tin".
+ GLHT  1254: Đức tin của người dự tòng cũng như trẻ em cần phải được tăng trưởng sau khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Vì vậy hàng năm, trong đêm canh thức Vượt Qua Hội Thánh cử hành việc lặp lại lời hứa khi lãnh bí tích rửa tội.
+ GLHT 1255: Để ân sủng của bí tích Rửa Tội được triển nở. Cha mẹ và người đỡ đầu có một vị trí quan trọng trợ giúp người dự tòng cũng như các trẻ em lớn lên trong đời sống đức tin.
- Họ phải là những tín hữu kiên vững trong đức tin.
- Có khả năng giúp đỡ và đồng hành với người con thiêng liêng trong đời sống đức tin.
- Nhiệm vụ của cha mẹ đỡ đầu thực sự là một chức vụ chính thức trong Hội Thánh.

5. Thừa tác viên Bí Tích Thánh Tẩy

- Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám mục, Linh mục và Phó tế[21]. (GLHT 1256)
- Trong trường hợp khẩn cấp thì bất cứ người Kitô hữu nào đều có thể cử hành Phép Rửa[22], kể cả người chưa chịu Phép Rửa, tức người ngoại giáo, mà có ý hướng cần thiết, nghĩa là: muốn làm điều Hội Thánh làm khi ban phép Rửa bằng cách sử dụng công thức Rủa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.
- Lý do người ngoại giáo cũng có thể cử hành phép Rửa là vì Hội Thánh thấy rõ rằng Thiên Chúa muốn cứu dộ mọi người[23]. Và bí tích Rửa Tội là Bí Tích cần thiết để được cứu độ[24].
- Trường hợp nguy tử như sảy thai, sinh non thiếu tháng mà cảm thấy em bé khó có thể sống được người mẹ hoặc người khác dùng miếng bông gòn nhỏ nước trên thai nhi và đọc "T. Ta rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
- Trường hợp người lớn muốn gia nhập đạo trong cơn nguy tử, thừa tác viên là Linh mục ban các bí tích cùng một lúc. Trước hết là dọn mình cho yếu nhân ăn năn tội, từ bỏ tội lỗi, tuyên xưng đức tin và Rửa tội. Tiếp đến là ban Bí Tích Thêm sức, và sau cùng cho yếu nhân chịu Mình Thánh Chúa[25].

6. Sự cần thiết của Bí Tích Thánh Tẩy

+ GLHT 1257: Chính Chúa Giêsu khẳng định bí tích Rửa Tội là cần thiết để được ơn cứu độ[26]. Vì thế Chúa Giêsu đã truyền lệnh cho các môn đệ của Người phải đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và làm Phép Rửa cho họ[27].
+ Vì thế Hội Thánh luôn ý thức sứ mệnh đã lãnh nhận nơi Chúa là phải làm cho tất cả những ai có thể lãnh nhận bí tích này được sinh ra bởi nước và Chúa Thánh Thần.
+ Có những người chịu chết mà chưa chịu phép Rửa thì sao? Có hai trường hợp
1. Những người chịu chết vì đức tin nghĩa là họ có lòng tin Chúa mà chịu chết khi chưa chịu phép Rửa, thì họ đã được tẩy rửa bàng cái chết của họ vì Đức Kitô và với Đức Kitô nghĩa là tẩy rửa bàng máu. Như vậy vẫn mang lại hiệu quả của Bí tích Rửa tội là được cứu độ[28].
2. Trường hợp thứ hai những người dự tòng có lòng ước ao được gia nhập đạo nhưng bị chết trước khi được Rửa Tội. Qua lòng ước ao và lòng sám hối thật tâm yêu mến Chúa và muốn trở nên con Chúa thì họ cũng được ơn cứu độ, nghĩa là được Rửa Tội bằng lòng ước muốn hay bằng lửa[29].
+ Có những người không biết đạo Chúa, chưa biết Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, cũng không biết Hội Thánh của Người, nhưng họ tìm kiếm chân lý và thực thi ý muốn của Thiên Chúa theo như họ hiếu biết, nghĩa là theo lương tâm ăn ở ngay lành thì họ có thể được cứu độ. Vì giả thiết rằng những người đó hẳn đã minh nhiên khao khát lãnh nhận bí tích Rửa Tội, nếu họ đã biết đến sự cần thiết cảu bí tích này[30].
+ Về các trẻ em chết mà chưa được rửa tội thì sao? Hội Thánh phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Chúa muốn cho mọi người được cứu độ, cũng như lòng thương mến của Chúa Giêsu đối các các trẻ em (Mt 10,14). Trong phụng vụ có nghi lễ an táng dành cho trẻ em chưa rửa tội hoặc đã rửa tội[31]. Điều đó cho phép chúng ta hy vọng rằng có một con đường cứu dộ dành cho trẻ em chết mà chưa được cứu độ[32].

CHƯƠNG V

HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY


Hai hiệu quả chính là: Thanh tẩy tội lỗi và tái sinh ta trong Chúa Thánh Thần[33]. Công Đồng Florence xác nhận: "Vị trí đầu tiên giữa các bí tích là Bí tích Rửa tội, là ngưỡng cửa bước vào đời sống siêu nhiên (vitae spiritualis ianua); nhờ đó chúng ta trở thành chi thể của Đức Kitô và của Hội Thánh. Và cũng như vì người đầu tiên mà cái chết đã đi vào trong tất cả chúng ta, nếu như chúng ta không được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, như Chúa đã nói, chúng ta không thể vào Nước Trời (x. Ga 3,5)" (DS 1314).
Giáo luật ngày hôm nay cung định nghĩa: :" Bí tích Rửa Tội là cửa ngỏ vào các bí tích khác" (Gl 849). Công đồng Vaticanô II cũng xác nhận: "Các tín hữu tháp nhập vào Giáo Hội bởi phép Rửa, và nhờ ấn tích, họ được đề cử thi hành việc phụng tự Kitô giáo và, được tái sinh làm con Thiên Chúa, họ có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ lãnh nhận từ Thiên Chúa qua Giáo Hội" (LG 11).
Theo sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo: Bí tích Rửa Tội tha thứ mọi tội lỗi, tái sinh chúng ta trở thành thụ tạo mới, được tháp nhập vào Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, làm cho ta hiệp nhất với các Kitô Hữu và ghi vào linh hồn ta một Dấu Ấn thiêng liêng không hề tẩy xóa. Chúng ta cùng tìm hiểu dưới đây.

1. Ban ơn tha tội

- Bí tích Thánh Tẩy tha hết mọi tội lỗi: Tội tổ tông, tội mình làm, và các hình phạt do tội. Bí tích Rửa tội là cửa dẫn vào sự sống và Nước Trời. Đó là Bí Tích đầu tiên của luật mới mà Chúa Kitô hiến cho nhân loại để được sống đời đời. Đó cũng là Bí Tích Người đã trao cho Hội Thánh cùng với Tin Mừng khi Người tuyền cho các Tông Đồ "Anh em hãy đi dạy dỗ cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19). Vì thế nơi những người đã được tái sinh không còn gì ngăn cản họ bước vào Nước Thiên Chúa dù là tội của Ađam, dù là tội của bản thân, dù là những hậu quả của tội, mà nghiêm trọng nhất là phải xa lìa Thiên Chúa[34].
- Mặc dầu bí tích Rửa Tội xóa mọi tội lỗi của con người, ban ơn cứu độ cho con người. Tuy vậy những hậu quả tạm thời của tội vẫn còn tồn tại: như đau khổ, bệnh tật, sự chết, sự mỏng dòn, yếu đuối, những dục vọng (sự  hướng chiều về tội). Vì con người còn sống trên trần gian, vì thế cần phải nổ lực chiến đấu với tội để đi vào Nước Trời. Công đồng Florentinô:" Dục vọng được để lại cho chúng ta chiến đấu. Dục vọng không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Ðức Ki-tô. Hơn nữa, "không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ"[35]. (2 Tm 2, 5) (x. CÐ Trentô: DS 1515).

2. Làm cho ta trở nên một Thụ tạo mới[36]

+ Bí tích Rửa Tội không những xóa sạch mọi tội lỗi mà còn làm cho ta trở nên một "thụ tạo mới". Thánh Phaolô cho thấy:"Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi." (2Cr 5, 17).
+ Thành nghĩa tử của Thiên Chúa. "Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử." (Gl 4, 5-7).
+ Được thông phần bản tính Thiên Chúa. "Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những người, nhờ sự công chính của Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng đã lãnh nhận một đức tin quý giá như chúng tôi. Chúc anh em được đầy tràn ân sủng và bình an, nhờ được biết Thiên Chúa và Đức Giê-su, Chúa chúng ta. Thật vậy, Đức Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian". (2Pr, 1-4).
+ Thành chi thể của Đức Kitô và đồng thừa tự với Người. "Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người." (Rm 8,17).
+ Thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. "Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em." (1Cr 6,19).
+ Vì phép Rửa kêu cầu và nhân Danh Ba Ngôi, nên Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người chịu phép Rửa ơn Thánh hóa, ơn công chính hóa[37]:
- Làm cho người đó có khả năng tin vào Thiên Chúa, trông cậy Ngài, yêu mến Ngài nhờ các nhân đức đối thần: Tin - Cậy - Mến
- Làm cho người đó có khả năng sống và hành động theo sự tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân của Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan-Hiểu biết-Thông minh-Biết lo liệu-Sức mạnh-Đạo đức-Kính sợ Thiên Chúa.
- Làm cho người đó tăng trưởng trong điều thiện hảo nhờ các nhân đức luân lý: Khôn ngoan - Công bình - Dũng cảm - Tiết độ.

3. Tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh

- Bí tích Rửa tội làm cho chúng ta được tháp nhập vào Hội Thánh chính là thân thể mầu nhiệm của Đức kitô. Làm Con Thiên Chúa, chúng ta cũng là con của Hội Thánh, ở trong lòng Hội Thánh mà Hội Thánh chính là Dân Mới được Chúa Giêsu thiết lập, quy tụ và cứu độ bằng cái chết và sự Phục sinh của Ngài. Dân Mới này được sinh ra từ giếng nước Rửa Tội vượt mọi ranh giới tự nhiên hoặc nhân bản về chúng tộc, văn hóa, giới tính, ngôn ngữ để làm thành một Dân Thiên Chúa, Dân của Giáo Ước Mới[38]: "Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất." (1Cr 12, 13).
- Bí tích Thánh Tẩy làm cho họ được tham dự vào ba chức năng: Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Chúa Kitô, trở nên viên đá sống động để xây dựng ngôi đền thờ thiêng liêng[39]. "Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền". (1Pr 2, 9). (Số 1268)
- Bí tích Thánh Tẩy làm cho họ được tham dự vào chức tư tế cộng đồng của các tín hữu.
- Những người đã chịu phép Rửa trở nên phần tử của Hội Thánh. Vì Thế họ được mời gọi để phục tùng lẫn nhau và phục vụ người khác trong sự hiệp thông của Hội Thánh; được mời gọi "vâng lời và phục tùng " các vị lãnh đạo của Hội Thánh[40] với lòng kính trọng và quý mến. Bí tích Rửa tội còn là nguồn mạch của các trách nhiệm và bổn phận[41]:
+ Người chịu phép Rửa được hưởng các quyền lợi trong lòng Giáo Hội: Được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, được nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng khác của Hội Thánh.
+ Những người chịu phép Rửa cũng có bổn phận tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người, đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua lòng Hội Thánh. Cũng như tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của dân Thiên Chúa.

4. Hiệp thông với các tín hữu khác

Những người chịu phép Rửa Tội được hiệp thông với các Kitô hữu khác[42]. Vì đã được công chính hóa nhờ đức tin khi chịu phép rửa, những người đó đã được tháp nhập vào Đức Kitô vì thế họ được mang danh Kitô hữu và được các người con của Hội Thánh đón nhận là anh em trong Chúa. Như thế Bí tích Rửa Tội là mối dây bí tích liên kết cách chặt chẽ sự hợp nhất giữa tất cả những người tái sinh nhờ bí tích đó[43].

5. Bí tích Thánh Tẩy khắc ghi một Ấn tín không thể xóa nhòa

Theo sách GLHT:
1272
Được nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ phép Rửa tội, người Kitô hữu trở nên đồng hình với Chúa Kitô( xem Rm 8,29) Phép Rửa tội in một dấu ấn thiêng liêng không thể nào tẩy xoá (character) trên người Kitô hữu, đánh dấu sự thuộc về Chúa Kitô. Dấu ấn này không bị xoá nhoà bởi bất cứ tội lỗi nào, cho dù tội lỗi ngăn cản không cho phép Rửa tội sinh hoa trái của ơn cứu độ ( xem DS. 1609-1619). Được ban một lần là đủ, phép Rửa tội không thể được ban lại lần thứ hai.
1273
Được nhập vào Giáo Hội nhờ phép Rửa tội, các tín hữu đã nhận được dấu ấn của bí tích, thánh hiến họ cho việc phụng tự Kitô giáo( xem LG 11) Dấu ấn của phép Rửa tội khiến họ có khả năng và dấn thân họ vào việc phụng sự Thiên Chúa, bằng cách tích cực tham dự vào Phụng vụ của Giáo Hội, và bằng việc thi hành chức tư tế của phép Rửa tội qua chứng từ của một đời sống thánh thiện và của đức bác ái hành động( xem LG 10)
 1274
"Dấu ấn của Chúa" (Dominicus character)( Th. Augustinô, Ep. 98,5) là dấu ấn mà Chúa Thánh Thần ghi trên chúng ta "cho ngày ơn cứu chuộcơ (Ep. 4,30)( xem Ep. 1,13-14; 2 Cr 1,21-22)."Bởi vì phép Rửa tội là dấu ấn của sự sống vĩnh cửu"( Th. Irênê, Dem. 3). Người tín hữu nào "giữ được dấu ấn" cho tới cùng, nghĩa là trung thành với những đòi hỏi của phép Rửa tội, thì sẽ có thể ra đi "với dấu ấn của đức tin"( MR., Lễ qui Rôma 97>, với niềm tin khi lãnh nhận phép Rửa tội, trong sự chờ đợi diện kiến diễm phúc Thiên Chúa - kết thúc niềm tin - và trong niềm hy vọng sống lại.
+ Công đồng Tridentinô, trong phiên họp thứu VII, chống lại nhóm Cải Cách, đã định tín về ấn tín của ba Bí Tích: Rửa tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh:
"Nếu ai bảo rằng trong ba Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh không ghi một dấu ấn trong linh hồn, đó là một dấu thiêng liêng, không thể tẩy xóa, đến độ không thể tái ban được: Kẻ ấy bị trục xuất" (Can.9)
+ Công Đồng Florence (1438) đã tuyên bố trong sắc lệnh gửi cho người Arménie đã biết giáo lý này, trước đó hai thế kỷ, Đức Giáo Hoàng Gregorio IX (1227) ũng đã xác nhận, các người lãnh nhận bí tích Truyền chức thành sự nhưng bất hợp pháp, đều lãnh nhận ấn tín bí tích. ĐGH Innocentê III đã nói về ấn tín của BTTT:"Hành động Bí Tích sẽ in một ấn tín, bởi vì không gặp một ngăn trở bởi một ý chí đối kháng" (DS 781).
+ Thánh Phaolô đã nói về dấu ấn của Thánh Thần là dấu ấn đặc biệt, Thiên Chúa ghi khắc trên những người lãnh BTRT, khác với ân sủng nhưng liên kết với ân sủng, dấu ấn ấy không tẩy xóa được:
- "Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa" (2Cr 1,21)
- "Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa
anh em đã được nghe lời chân lý
là Tin Mừng cứu độ anh em;
vẫn trong Đức Ki-tô,
một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng Thiên Chúa đã hứa." (Ep 1,13)
- "Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc." (Ep 4,30).
Suy tư của các nhà Kinh Viện:
1. Ấn tín là dấu chỉ đồng dạng - Signum confiigurativum
- Ấn tín là một dấu giúp ta giống Thiên Chúa và thánh hiến cách đặc biệt để phục vụ Người. Từ ấn tín cho ta cảm tưởng một dấu ấn được ghi trong tâm hồn cho thấy sự giống nhau. Thánh Tôma nói Chúng ta giống Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ghi dấu ấn của Người trong tâm hồn chúng ta[44]. Nên chi trong lời từ biệt người quá cố chúng ta hát: Chúng con trình diện lên Chúa người tín hữu đã được đóng ấn Ba Ngôi Thiên Chúa. Như thế Ấn tín giúp con nguòi giống Thiên Chúa, đặc biệt là giống Đức Kitô. Theo thánh Tôma, ấn tín như một sự chia sẻ vào quyền tư tế của Đức Kitô:
- Ấn tín bí tích là một sự tham gia chưa trọn vẹn vào chức tu tế của Đức Kitô
- Các tin hữu đã được đóng ấn tín sẽ nên giống Con Thiên Chúa Nhập Thể, dưới phương diện con nguời thiên linh, tức là Đức Giêsu Kitô là Tư Tế trước mặt Thiên Chúa.
- Án tín giúp cho người tín hữu trở thành thừa tác viên của Đức Giêsu, ban cho họ quyền trở thành khí cụ tư tế của Đức Kitô, tức là Đức Kitô thực hiện quyền tư tế trong họ và nhờ họ.
 2. Ấn tín là dấu chuẩn bị sẵn sàng - Signum dispositivum
Ấn tín khác biệt với ân sủng, nhưng liên hệ với ân sủng do Bí Tích đem lại. Ấn tín là dấu chỉ cho ân sủng và chuẩn bị tâm hồn của tín hữu để đón nhận ân sủng và bảo quản ân sủng. Thánh Augustinô củng cố lý thuyết ấn tín BTRT có thể được lãnh nhận nhưng không kèm theo ân sủng tái sinh. Từ đó đưa đến
- Trong bí tích Rửa Tội hiệu qua trực tiêp là ấn tín chứ không phải ân sủng, chỉ vì ấn tín xuất hiện khi BT thành sự, trong khi đó ân sủng không thể xuất hiện nếu vắng bóng ấn tín.
- Ấn tín hoàn toàn độc lập khỏi các chuẩn bị cả người lãnh nhận.
- Ân sủng có thể tăng hay giảm, nhưng ấn tín mọt khi đã lanh nhận thì không thể tăng hay giảm.
3. Ấn tín là một dấu chỉ phân biệt - signum distinctivum
Đối với Hội Thánh, ấn tín phân biệt người tín hữu với những người chưa rửa tội, người ngoại giáo và giữa các tín hữu.

 

TÓM KẾT BÍ TÍCH THÁNH TẨY THEO GIÁO LÝ HỘI THÁNH


1275
 Việc gia nhập Kitô giáo được thực hiện nhờ ba bí tích: phép Rửa tội là khởi đầu cuộc sống mới; phép Thêm sức là sự củng cố cho sự sống đó; và phép Thánh Thể thì dưỡng nuôi các môn đệ bằng Mình và Máu Chúa Kitô hòng biến đổi họ nên giống Ngài.
 1276
 "Vậy anh em hãy đi và hãy làm cho các dân tộc trở thành môn đệ Thày bằng cách rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Thày đã truyền dạy anh em" (Mt 28,19-20).
 1277
 Phép Rửa tội làm cho ta sinh ra với sự sống mới trong Chúa Kitô. Theo ý Chúa, phép Rửa tội cần thiết cho ơn cứu độ, cũng như Giáo Hội mà bí tích này đưa ta vào.
 1278
 Nghi thức chủ yếu của phép Rửa tội là nhấn ứng viên xuống trong nước, hoặc đổ nước trên đầu người đó, đồng thời đọc lời kêu cầu Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần.
 1279
 Hiệu quả tức ân sủng của phép Rửa tội là một thực tại phong phú, gồm có: ơn tha tội nguyên tổ và tất cả các tội lỗi của bản thân; được sinh ra trong sự sống mới, nhờ đó người ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha, là chi thể Chúa Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, người lãnh nhận phép Rửa tội được nhập vào Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô, và được tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô.
 1280
 Phép Rửa tội ghi trong linh hồn người ta một dấu hiệu thiêng liêng không thể tẩy xoá, đó là dấu ấn và dấu này thánh hiến người Kitô hữu để lo việc phụng tự trong Kitô giáo. Vì lý do dấu ấn của phép Rửa tội, cho nên bí tích này không thể được lập lại( xem DS 1609 và 1624).
 1281
 Những người chịu chết vì đức tin, những người dự tòng và tất cả những người được ân sủng thúc đẩy, tuy không biết Giáo Hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và cố gắng thực thi thánh ý Ngài, đều được cứu thoát dù không lãnh nhận phép Rửa tội( xem LG 16)
 1282
 Từ thời xa xưa nhất, phép Rửa tội đã được ban cho các trẻ nhỏ, vì đây là một ân sủng và một hồng ân của Thiên Chúa, không đòi hỏi một công nghiệp nào về phía con người: các trẻ nhỏ được Rửa tội trong đức tin của Giáo Hội. Bước vào cuộc sống Kitô hữu là bước vào sự tự do thật.
 1283
 Còn đối với các trẻ nhỏ chết khi chưa lãnh nhận phép Rửa tội, Phụng vụ của Giáo Hội kêu mời chúng ta hãy tin tưởng vào lòng từ bi của Thiên Chúa và hãy cầu nguyện cho ơn cứu độ của các em.
 1284
 Trong trường hợp khẩn cấp, bất cứ ai cũng có thể làm phép Rửa tội, miễn là có ý làm điều mà Giáo Hội làm, và đổ nước trên đầu ứng viên trong khi đọc rằng: "Tôi rửa anh (chị, em) nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".

KẾT:


Chúng ta đã tìm hiểu những phần chính yếu về Bí Tích Thánh Tẩy. Mỗi người chúng ta cần suy niệm về hành trình Thánh Tẩy và Hồng ân Thánh Tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận và cùng với ơn Chúa giúp chúng ta sống mạnh mẽ Bí Tích Thánh Tẩy trong đời sống người Kitô hữu. Đó cũng chính là ơn gọi Nên Thánh mà Thiên Chúa muốn con người vươn đến: Các người hãy là thánh vì Ta là Thánh.



 

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO, Bản dịch của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn Giáo 2011.
2. HEINRICH DENZINGER, Enchiridion Symbolorum - Definitionum et declarationum de rebus fidei et morum, a cura di Peter Hunermann, EDB 2002.
3. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia.
4. BỘ GIÁO LUẬT 1983
5. BÙI VĂN ĐỌC, Thần học Tín Lý về Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thêm Sức, Tài liệu lưu hành nội bộ của Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Sài Gòn.
6. NGUYỄN VĂN TRINH, Bí Tích Học - Bí Tich Thánh Tẩy, Tài liệu lưu hành nội bộ của Đại Chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn, 2002.
7. Baptizo: “immersion, submersion”, A Greek-English Lexicon of the New Testament, Grimm-Thayer, p. 94. (ngâm, nhấn chìm)
8. Baptizo: “to dip, immerse, sink”, Manual Greek Lexicon of the New Testament, Abbott-Smith, p. 74. (nhúng, ngâm, chìm xuống)
9. Baptizo: “immerse, submerge. The peculiar N.T. and Christian use of the word to denote immersion, submersion for a religious purpose”, Biblico-Theological Lexicon of the New Testament Greek, Cremer.
10. Baptizo: “Baptizo, immerse”, Word Study Greek-English New Testament, Paul. R. McReynolds, p. 907.
11. Theological Dictionary of the New Testament, One Volume, ed. Geoffrey W. Bromiley, p. 92.
12. THE TEACHING OF THE TWELVE APOSTLES. A Translation with Notes; AND EXCURSUS (Ι. TO IX.) ILLUSTRATIVE OF THE “TEACHING;” BY CANON SPENCE, Μ.Α. VICAR OF S. PANCRAS. Second Edition. London: JAMES NISBET & CO., 21 BERNERS STREET. MDCCCLXXXVIII. [1888AD].













[1] X. GLHT 1211.
[2] x. ÐGH Phao-lô VI, Tông hiến "Tham dự đời sống thần linh"; x. OICA tiền chú 1-2.
[3] x. CÐ Flô-ren-ti-nô, DS 1314; CIC khoản 204, 1; số 9; CCEO khoản 675,1.
[4] X. Rm 6,3-4; Cl 2,12.
[5] Baptizo: “to dip, immerse, sink” (nhúng, ngâm, chìm xuống) - Manual Greek Lexicon of the New Testament, Abbott-Smith, p. 74. Cf. Baptizo: “Baptizo, immerse”, Word Study Greek-English New Testament, Paul. R. McReynolds, p. 907.
- Baptizo: “The meaning of bapto and baptizo. bapto, ‘to dip in or under,’ ‘to dye,’ ‘to immerse,’ ‘to sink,’ ‘to drown,’ ‘to bathe,’ wash.'” (Theological Dictionary of the New Testament, One Volume, ed. Geoffrey W. Bromiley, p. 92)
- Baptizo: “consisting of the process of immersion, submersion and emergence (from bapto, to dip)” (Expository Dictionary of New Testament Words, W. E. Vine). (Baptizo: bao gồm quá trình ngâm, nhấn chìm và nổi lên (từ bapto, đến nhúng)
[6] Vị thần Mặt trời xuất phát từ Ba tư.
[7] Nguồn:Thái lan thu thập nước thiêng chuẩn bị cho nhà vua đăng quang <https://vnexpress.net/the-gioi/thai-lan-thu-thap-nuoc-thieng-chuan-bi-cho-nha-vua-dang-quang-3906339.html>
[8] "Herodotos xứ Halikarnasseus, còn gọi là Hérodote hay Hêrôđôt (tiếng Hy Lạp: Hρόδοτος Aλικαρνασσεύς Hēródotos Halikarnāsseús) là một nhà sử học người Hy Lạp sống ở thế kỷ 5 trước Công nguyên (khoảng 484 TCN - 425 TCN), ông được coi là "người cha của môn sử học" trong văn hóa phương Tây. Herodotos là nhà sử học đầu tiên sưu tầm tài liệu một cách có hệ thống, kiểm tra độ chính xác ở một mức độ nào đó và sắp xếp thành những thể truyện sống động và có cấu trúc tốt. Ông được biết đến nhiều nhất qua tác phẩm Historiai (tiếng Hy Lạp: Iστορίαι), một tài liệu ghi chép những cuộc tra cứu của ông về nguồn gốc cuộc chiến tranh Ba Tư-Hy Lạp xảy ra vào giai đoạn từ 490 đến 479 TCN, và, rộng rãi hơn, về huyền sử, lịch sử hoặc phong tục của rất nhiều chủng tộc sinh sống trên ba châu Á, Âu, Phi - những châu lục mà ông đã đi du lịch.
Herodotus là một trong những nhà sử học vĩ đại nhất mọi thời đại. Ông là tác giả đầu tiên đề cập đến lối sống, truyền thống văn hóa, thậm chí bộ máy thống trị và việc làm ăn kinh tế của tộc người Scythia - một dân tộc cư ngụ ở phía Bắc Hắc Hải, từ sông Danube cho đến sông Đông. Ông cũng đã góp phần lập lên danh sách bảy kỳ quan thế giới cổ đại qua những chuyến du lịch của ông. Một trong các kỳ quan này là lăng mộ của Mausolus đã được dựng lên tại Halikarnasseus, quê hương của ông, khoảng 70 năm sau khi ông qua đời. Bên cạnh danh tiếng, ông bị chỉ trích là "Ông tổ nói láo" vì ông ghi cả những câu chuyện cổ tích và truyền thuyết vào sử sách". (x. Herodotos <https://vi.wikipedia.org/wiki/Herodotos>.
[9] "Osiris (/ɔʊˈsaɪrɪs /,trong tiếng Hy LạpὌσιρις còn gọi là Usiris; các tên khác dịch từ tiếng Ai Cập là Asar, Asari, Aser, Ausar, Ausir, Wesir, Usir, Usirevà Ausare) là một vị thần trong bộ 9 vĩ đại của Heliopolis trong tôn giáo Ai Cập cổ đại. Ông là con trai của thần đất Geb và nữ thần bầu trời Nut, là anh của 3 vị thần Isis, Set và Nephthys. Ông được coi là thần của thế giới bên kia, người cai quản âm phủ.
Osiris được miêu tả là có nước da màu xanh, mang bộ râu của pharaoh và xuất hiện dưới dạng xác ướp. Ông đội vương miện Atef (vương miện trắng có gắn lông vũ ở hai bên), tay cầm néo và móc - biểu tượng của một pharaoh".
[10] X. Nguyễn Văn Trinh, Bí Tích học, Tập.1, ĐCV Sài gòn 2002,14.
[11] X. Lễ cắt bì <http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/kinh-thanh/thi-d-minh-ha/32-t-in-kinh-thanh/187-l-ct-bi>
[12] Lời nguyện làm phép nước trong đêm Vọng Phục Sinh. (Sách Lễ Roma).
[13] "Ông Áp-ra-ham đã tin, và vì thế được kể là người công chính.10 Ông được kể là người công chính khi nào? Trước hay sau khi ông được cắt bì? Không phải sau, mà là trước khi ông được cắt bì!11 Ông nhận được phép cắt bì như dấu hiệu chứng thực rằng: nhờ tin mà ông được trở nên công chính, trước khi được cắt bì. Như vậy, ông là cha của mọi kẻ tin mà không được cắt bì, và vì tin nên được kể là công chính.12 Ông cũng là cha của những người được cắt bì, nhưng không phải chỉ được cắt bì, mà còn dõi bước tổ phụ chúng ta là ông Áp-ra-ham, trên đường đức tin, đức tin ông đã có trước khi được cắt bì". (Rm 4, 9tt-11).
[14] X. (Mc 1:9-11; Lc 3:21 -22 ).
[15] "Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi". (1Pr 1,23; Ep 5,26); "như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống".
[16] Sách Giáo huấn, sách Didache (Giáo huấn của 12 Tông Đồ). Là một cuốn chuyên khảo của thế kỷ thứ nhất, được viết trước năm 100. Cuốn sách được tái phát hiện vào năm 1833 do Bryennios, Tổng Giám Mục Nicomedia thuộc Chính Thống giáo Hi Lạp, trong bộ sách mà từ đó vào năm 1875 ngài đã xuất bản trọn bản văn các Thư của thánh Clement I. Sách Giáo huấn được chia thành ba phần: 1. hai Đường, Đường Sống và Đường Chết; 2. thủ bản phụng vụ hướng dẫn Rửa Tội, ăn chay, xưng tội và Rước Lễ; 3. khảo luận về tác vụ. Việc dạy tín lý được bao hàm trong đó. Đường Sống là mến Chúa yêu người, Đường Chết là danh sách các nết hư tật xấu cần phải tránh. Có một phần hướng dẫn ngắn về Phép Rửa Tội, quy chiếu với các thánh Tông Đồ, Giám Mục và Phó Tế, và bài khuyến khích để canh chừng và chuẩn bị cho việc Chúa Kitô đến lần thứ hai.
[17] THE TEACHING OF THE TWELVE APOSTLES. A Translation with Notes; AND EXCURSUS (Ι. TO IX.) ILLUSTRATIVE OF THE “TEACHING;” BY CANON SPENCE, Μ.Α. VICAR OF S. PANCRAS. Second Edition. London: JAMES NISBET & CO., 21 BERNERS STREET. MDCCCLXXXVIII. [1888AD].
[18] X. GLHT 1229.
[19] Bộ Giáo Luật 1983, điều 864; x. Bộ Giáo Luật Đông Dương, điều 679.
[20] x. Mc 16,16.
[21] X. Bộ Giáo Luật, điều 861,1.
[22] X. Bộ Giáo Luật, điều 861, 2.
[23] 1Tm 2,4.
[24] Mc 16,6.
[25] Bộ Giáo Luật, điều 866: "Trừ khi có một ngăn trở  nghiêm trọng người thành niên nào được Rửa Tội thì cũng lãnh nhận bí tích Thêm Sức ngay sau khi bí tích Rửa Tội,tham dự Thánh Lễ, cũng như rước lễ".
[26] X. Ga 3,5.
[27] X. Mt 28,20. CĐ Tridentinô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis. Canones de sacramento Baptismi, canon5: DS 1618; CĐ Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 14: AAS 57 (1965) 18; Id., Săc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 951-952.
[28] X. GLHT 1258.
[29] X. GLHT 1259
[30] X. GLHT 1260.
[31] Bộ Giáo Luật, số 1183: “Bản quyền sở tại (Giáo quyền địa phương) có thể ban phép cử hành an táng theo nghi thức Giáo hội cho các trẻ em mà cha mẹ có ý rửa tội nhưng đã chết trước khi được rửa tội.”
[32] X. GLHT 1261.
[33] X. GLHT 1262.
[34] X. GLHT 1263.
[35] X. GLHT 1264.
[36] X. GLHT 1265 -1266.
[37] X. GLHT 1266.
[38] X. GLHT 1267.
[39] 1Pr 2, 5:"Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô."
[40] Dt 13, 17: "Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em".
[41] X. GLHT 1269 - 1270.
[42] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio,  3: AAS 57 (1965) 93.
[43] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio,  22: AAS 57 (1965) 105.
[44] X. S.theol.III,q.63,a.1.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét