Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

Đề cương ôn tập Giáo lý Thêm Sức

 


L.m. Gioan B. Trương Đình Hà







ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP

GIÁO LÝ THÊM SỨC

 

(Các em chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thêm Sức)

 

 

 

 

 

2021

 

 

 

 

Biên soạn theo sách

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo

bản rút gọn của HĐGMVN 2013

 

Tham khảo


- Giáo Lý Hội Thánh công Giáo, Bản dịch của HĐGMVN, 2011

- Thủ bản giáo lý: Lớn lên trong Chúa Thánh Thần, chương trình giáo lý Hồng Ân, Giáo phận Xuân Lộc 2015.

- ĐTGM Nguyễn Văn Bình, ĐGM Nicolas Huỳnh Văn Nghi, Giáo Lý Tân Định, Tân Định Sài Gòn 1967.

 

 


Lời nói đầu

 

Thiếu nhi lớp Thêm sức thân mến!

Trong những ngày cách ly xã hội vì dịch bệnh Covid -19, chương trình học giáo lý của chúng con cũng bị gián đoạn, vì thế Cha gửi đến chúng con tập “Đề cương ôn tập Giáo lý Thêm sức”, tóm lại những điều cần thiết nhất trong chương trình học giáo lý chuẩn bị đón nhận Chúa Thánh Thần. Chúng con cố gắng học thuộc lòng các câu hỏi thưa; mỗi ngày ôn tập mấy câu các con sẽ nhớ được nội dung giáo lý.

Hình thức thi:

1. Giáo lý: Các Giáo lý viên cho các em rút thăm câu hỏi, mỗi thăm 10 câu hỏi, các em trả lời, câu nào chưa thuộc các em sẽ thi lại câu đó.

2. Thi Kinh đọc hàng ngày: Giáo lý viên cũng cho các em rút thăm kinh đọc hoặc khảo trực tiếp tùy nghi.

Xin Chúa chúc lành cho chúng con.

 

 

A. PHẦN GIÁO LÝ

Phần I. TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

Bài 1: MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA BA NGÔI

1. H. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời sống Kitô giáo là gì?

T. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

2. H. Hội Thánh tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thế nào?

T. Hội Thánh tuyên xưng một Thiên Chúa mà Ngài có ba ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, ngôi thứ hai là Con, ngôi thứ ba là Thánh Thần. [44]

3. H. Nhờ đâu chúng ta biết được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?

T. Nhờ Chúa Giêsu mạc khải mà chúng ta biết được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (x. Mt28,19). [45]

4. H. Ba Ngôi hiệp nhất với nhau thế nào?

T. Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể và một uy quyền như nhau, nên chỉ là một Thiên Chúa duy nhất mà thôi.

5. H. Ba Ngôi hoạt động thế nào?

T. Ba Ngôi có cùng một hoạt động duy nhất, nhưng mỗi Ngôi biểu lộ nét riêng biệt: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. [49]

Bài 2: CHÚA CHA - ĐẤNG SÁNG TẠO

6. H. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha là Đấng nào?

T. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha là Đấng dựng nên vũ trụ và con người, nhưng trên hết, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con từ thuở đời đời. [46]

7. H. Thiên Chúa tạo dựng những gì?

T. Thiên Chúa tạo dựng trời và đất, muôn vật hữu hình và vô hình

8. H. Muôn vật hữu hình là gì?

T. Muôn vật hữu hình là tất cả các thụ tạo mà chúng ta thấy được, trong đó cao trọng nhất là con người. [63]
9. H. Muôn vật vô hình là gì?

T. Muôn vật vô hình là là loài thiêng liêng, được dựng nên để phục vụ Thiên Chúa và giúp đỡ loài người. Đó là các Thiên Thần. [60. 61]

10. H. Các Thiên Thần có sống mãi trong tình nghĩa với Thiên Chúa không?

T. Có một số Thiên Thần đã dứt khoát từ chối vương quyền của Thiên Chúa, quyến rũ loài người chống lại Ngài; đó là ma quỷ. [74]

11. H. Con người được Thiên Chúa dựng nên thế nào?

T. Con người được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, nghĩa là có khả năng nhận biết và yêu mến cách tự do Đấng tạo nên mình.

12. H. Ai ban linh hồn bất tử cho con người? [70]
T. Thiên Chúa trực tiếp ban linh hồn bất tử cho con người.

13. H. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã ban cho con người có những đặc ân nào?

T. Thiên Chúa đã ban cho con người được sống thân tình với Ngài, sống hòa hợp với bản thân, với mọi người mọi vật, không phải đau khổ và không phải chết.

14. H. Tội tổ tông là tội gì?

T. Tổ tông loài người đã nghe ma quỷ cám dỗ, lạm dụng tự do mà không tin tưởng và tuân phục Thiên Chúa, nên đã phạm tội mất lòng Chúa; đó là tội tổ tông.

15. H. Tội tổ tông gây nên những hậu quả nào?

T. Tội tổ tông làm cho loài người mất ơn nghĩa với Thiên Chúa, mất sự hòa hợp với bản thân, với mọi người mọi vật, hướng chiều về tội lỗi, phải đau khổ và phải chết.

16. H. Sau khi tổ tông phạm tội, Thiên Chúa có bỏ loài người không?

T. Sau khi tổ tông phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mà còn hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người.

Bài 3: NGÔI HAI THIÊN CHÚA - ĐẤNG CỨU THẾ

17. H. Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người như thế nào?

T. Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần, mà cho Ngôi Hai nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria. [85]

18. H. Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để làm gì? [79]

T. Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người:

- Một là để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi;

- Hai là để tỏ cho chúng ta biết tình yêu của Thiên Chúa;

- Ba là để làm mẫu mực cho chúng ta sống thánh thiện;

- Bốn là để chúng ta được kết hợp với Ngài mà trở nên con cái Thiên Chúa (85)

19. H. Ngôi Hai Thiên Chúa làm người tên là gì?

T. Ngôi Hai Thiên Chúa làm người tên là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu chuộc. [81] 

20. H. Đức Chúa Giêsu có mấy bản tính? [81]

T: Đức Chúa Giêsu có hai bản tính : một là bản tính Thiên Chúa, hai là bản tính loài người. Hai bản tính ấy kết hợp trong một Ngôi Vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa, đó chính là mầu nhiệm nhập thể. Vì thế Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật. (87)

21. H. Cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu đã diễn ra thế nào?

T. Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bêlem, sống ẩn dật tại Nadarét, nước Do Thái. Khoảng ba mươi tuổi, Ngài đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sau cùng Ngài chịu chết trên thập giá thời Phongxiô Philatô, rồi sống lại và lên trời.(525.541.668)

22.  H. Đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì?

T. Đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu dạy chúng ta hai điều này:

- Một là sống thánh thiện trong đời sống thường ngày qua cầu nguyện, lao động và yêu thương;

- Hai là sống hiếu thảo với cha mẹ. [104]

Bài 4: CUỘC KHỔ NẠN và PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU

23. H. Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu là gì? [101]

T. Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu là trọng tâm của đức tin Kitô giáo. Mầu nhiệm này bao gồm cuộc khổ nạn, cái chết, sự phục sinh và lên trời vinh hiển của Ngài.

24. H. Vì sao Thiên Chúa lại muốn cho Chúa Giêsu phải chết? [107]

T. Vì Thiên Chúa muốn giao hòa chúng ta với Ngài, nên đã “sai Con Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10)

25. H: Đức Chúa Giêsu chịu chết ở đâu, vào lúc nào?

T. Đức Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá, ngoài thành Giêlusalem đời quan Phongxiô Philatô, vào ngày thứ sáu, áp lễ Vượt qua của người Do Thái. ((59))

26. H. Hy tế của Chúa Giêsu trên Thập giá đem lại cho chúng ta điều gì? [111]

T. Hy tế của Chúa Giêsu trên Thập giá xóa bỏ tội trần gian (x. Ga 1,29) và giao hòa toàn thể nhân loại với Chúa Cha. (122)

27. H. Sau khi Chúa Giêsu chết và mai táng trong mồ, điều kỳ diệu gì đã xảy ra?

T. Sau khi chết chưa đủ ba ngày, Chúa Giêsu đã sống lại như Người đã báo trước.

28. H. Có những “dấu chỉ” nào cho biết Chúa Giêsu đã phục sinh?

T. Có những “dấu chỉ” này:

- Một là ngôi mộ trống, không còn xác Chúa;

- Hai là Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ.

29. H. Sự phục sinh của Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta điều gì?

T. Sự phục sinh của Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta ơn làm con Thiên Chúa và thân xác chúng ta được sống lại trong ngày sau hết.

30. H. Việc Chúa Giêsu lên trời có ý nghĩa gì?

T. Việc Chúa Giêsu lên trời có những ý nghĩa này:

- Một là Ngài được Chúa Cha tôn vinh và không ngừng chuyển cầu cho chúng ta;

- Hai là Ngài cử Thánh Thần đến với chúng ta và ban cho chúng ta niềm hy vọng được lên trời với Ngài.

31. H. Việc Chúa Giêsu lại đến trong vinh quang có nghĩa gì?

T. Đó là sự chiến thắng tối hậu và là cuộc phán xét cuối cùng của Ngài đối với kẻ sống và kẻ chết.

32. H. Chúa Giêsu sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết như thế nào?

T. Ngài sẽ xét xử và thưởng phạt mỗi người tùy theo các công việc họ đã làm.

Bài 5: CHÚA THÁNH THẦN - ĐẤNG THÁNH HÓA

33. H. Chúa Thánh Thần là Đấng nào?

T. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một Bản tính và một quyền năng, được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. [101]

34. H. Điều gì đã xảy ra trong ngày lễ Ngũ Tuần?

T. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Giêsu ban tràn đầy Thánh Thần cho các tín hữu, nhờ đó họ được hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và được sai đi để công bố và loan truyền mầu nhiệm hiệp thông này.

35. H. Chúa Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh thế nào?

T. Chúa Thánh Thần xây dựng, ban sức sống và thánh hóa Hội Thánh.

36. H. Chúa Thánh Thần xây dựng Hội Thánh thế nào?

T. Chúa Thánh Thần ban sự sống cho Hội Thánh, hợp nhất các tín hữu nên một trong Chúa Kitô, và thúc đẩy Hội Thánh chu toàn sứ mệnh Chúa Kitô giao phó.

37. H. Chúa Thánh Thần thánh hóa Hội Thánh thế nào?

T. Chúa Thánh Thần làm cho các tín hữu trở nên con cái Chúa Cha, và dự phần vào chính sự sống Chúa Kitô. Người còn cho họ nhận biết sự thật, dạy họ cầu nguyện, thúc đẩy họ sống mến Chúa yêu người, và làm chứng cho Chúa Kitô.

38. H. Có mấy ơn Chúa Thánh Thần?

T. Có bảy ơn Chúa Thánh Thần:

- Một là ơn khôn ngoan

- Hai là ơn hiểu biết

- Ba là ơn thông minh

- Bốn là ơn biết lo liệu

- Năm là ơn sức mạnh

- Sáu là ơn đạo đức

- Bảy là ơn kính sợ Thiên Chúa.

39. H. Hoa trái của Chúa Thánh Thần là gì?

T. Hoa trái của Chúa Thánh Thần là những điều tốt lành mà chúng ta có được nhờ ơn Chúa Thánh Thần.

40. H. Có bao nhiêu hoa trái của Chúa Thánh Thần?

T. Theo truyền thống của Hội Thánh, có mười hai hoa trái của Chúa Thánh Thần, là bác ái, hoan lạc và bình an; kiên nhẫn, quảng đại và nhân từ; từ tâm, khoan dung và trung tín; khiêm nhu, tiết độ và khiết tịnh (x.Gl 5,22-23)

41. H. Ta phải sống với Chúa Thánh Thần thế nào?

T. Ta phải tin kính, thờ phượng, cầu xin Chúa Thánh Thần và vâng theo ơn Ngài soi sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người.

Bài 6: HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

42. H. Tín hữu công giáo gồm những ai? [177] 
T. Tín hữu công giáo gồm những người tin vào Đức Kitô, đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng.

43. H. Hội Thánh Công Giáo gồm có những thành phần nào?

T. Hội Thánh Công Giáo gồm có hai thành phần là Giáo sĩ và Giáo dân. Trong hai thành phần này, có những người sống đời thánh hiến gọi là tu sĩ. [178]

44. H. Hội Thánh Công giáo có những đặc tính nào?
T. Hội Thánh công giáo có bốn đặc tính này:

- Một là duy nhất;

- Hai là thánh thiện;

- Ba là công giáo;

 - Bốn là tông truyền. [161. 165. 166. 174]

Bài 7: ĐỨC MARIA

45. H. Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những đặc ân nào?

T. Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những đặc ân này:

- Một là ơn làm Mẹ Thiên Chúa

- Hai là ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội

- Ba là ơn Đồng Trinh Trọn Đời

- Bốn là ơn Hồn Xác Lên Trời

46. H. Chúng ta phải tôn kính Đức Maria thế nào?
T. Chúng ta phải đặc biệt tôn kính và yêu mến Đức Maria, bằng cách tham dự các ngày lễ kính Đức Mẹ, siêng năng cầu nguyện với  Đức Mẹ qua các kinh nguyện, nhất là kinh Mân Côi và noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ. [198]

47. H. “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” nghĩa là gì?

T. Nghĩa là thân xác con người sau khi chết sẽ hư nát, nhưng Thiên Chúa sẽ cho thân xác ấy được sống lại trong ngày tận thế. [202]

Phần II. CỬ HÀNH CÁC MẦU NHIỆM KITÔ GIÁO

Bài 8: PHỤNG VỤ

48. H. Phụng vụ là gì?

T. Phụng vụ là việc Hội Thánh chính thức cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, để thờ phượng Thiên Chúa và thánh hóa con người.

49. H. Những việc nào là việc Phụng vụ?

T. Là Thánh lễ, các bí tích, các á bí tích và các Giờ Kinh Pụng vụ

50. H. Ngày Chúa nhật quan trọng thế nào trong năm Phụng vụ?

T. Ngày Chúa nhật rất quan trọng vì là “Ngày của Chúa”, ngày Chúa Phục sinh. Vì thế, ngày Chúa nhật là nền tảng và trung tâm của cả năm Phụng vụ. Ai cố tình bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng thì mắc tội trọng.

51. H. Năm Phụng vụ được tổ chức thế nào?

T. Năm Phụng vụ được tổ chức thành các mùa là mùa Vọng, mùa Giáng sinh, mùa Chay, mùa Phục sinh và mùa Thường niên.

 

Bài 9: BÍ TÍCH

52. H. Bí tích là gì?

T. Bí tích là dấu bên ngoài Chúa Giêsu đã lập và truyền lại cho Hội Thánh cử hành, để diễn tả và thông ban cho chúng ta ân sủng bên trong là sự sống thần linh.

53. H. Có mấy bí tích?

T. Có 7 bí tích:

- Một là Bí tích Rửa Tội

- Hai là Bí tích Thêm Sức

- Ba là Bí tích Thánh Thể

- Bốn là Bí tích Thống Hối

- Năm là Bí tích Xức Dầu bệnh nhân

- Sáu là Bí tích Truyền Chức Thánh

- Bảy là Bí tích Hôn Phối.

54. H. Vì sao các Bí tích cần thiết cho ơn cứu độ?

T. Vì các Bí tích trao ban ân sủng của Chúa Thánh Thần, để Ngài chữa lành và biến đổi chúng ta.

Bài 10: BÍ TÍCH THÁNH THỂ và THÁNH LỄ

55. H. Bí tích Thánh Thể là gì?
T. Là bí tích Chúa Giêsu đã lập, để tiếp tục lễ hy sinh trên Thánh giá và để ban Mình Máu Ngài, làm của ăn nuôi sống linh hồn ta. (271)

56. H. Hội Thánh cử hành Bí tích Thánh Thể thế nào?
T. Hội Thánh cử hành Bí tích Thánh Thể trong Thánh lễ, gồm hai phần chính:

- Một là Phụng vụ Lời Chúa, khởi đi từ lời nguyện nhập lễ cho đến hết lời nguyện giáo dân;

- Hai là Phụng vụ Thánh Thể, khởi đi từ việc chuẩn bị lễ vật cho đến hết lời nguyện hiệp lễ. (277)

57. H. Trong Thánh lễ, khi nào bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô?

T. Trong Thánh lễ, khi linh mục đọc lời truyền phép, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. [283]

Bài 11: BÍ TÍCH THỐNG HỐI

58. H. Bí tích Thống Hối là gì?
T. Là bí tích Chúa Giêsu đã lập, để tha các tội riêng chúng ta đã phạm từ khi lãnh Bí tích Rửa tội về sau, cùng giao hòa chúng ta với Thiên Chúa và Hội Thánh. [296. 298]
59. H. Muốn lãnh Bí tích Thống Hối chúng ta phải làm gì?

T. Muốn lãnh Bí tích Thống Hối chúng ta phải làm bốn việc này:

- Một là xét mình;

- Hai là ăn năn và dốc lòng chừa;

- Ba là xưng tội;

- Bốn là đền tội.

Bài 12: BÍ TÍCH THÊM SỨC

60. H. Bí tích Thêm Sức là gì?

T. Là bí tích Chúa Giêsu đã lập, để ban tràn đầy Chúa Thánh Thần, hầu giúp chúng ta sống ơn Bí tích Rửa Tội cách mạnh mẽ và tốt đẹp hơn.

61. H. Nghi thức chính yếu của Bí tích Thêm Sức là gì?

T. Là việc xức dầu thánh trên trán người đã lãnh Bí tích Rửa Tội, cùng với việc đặt tay trên đầu người ấy và đọc rằng: “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần”.

62. H. Hiệu quả của Bí tích thêm Sức là gì?

T. Là việc đổ tràn Chúa Thánh Thần trên người lãnh bí tích, nhờ đó họ được ghi ấn tín không thể tẩy xóa và gia tăng ân sủng Bí tích Rửa Tội.

63. H. Việc gia tăng ân sủng Bí tích Rửa Tội nghĩa là gì?

T. Nghĩa là giúp chúng ta tiến sâu hơn vào ơn làm con cái Thiên Chúa; được kết hợp mật thiết hơn với Đức Kitô và Hội Thánh; được thêm các ơn Chúa Thánh Thần; được thêm sức mạnh để làm chứng và bảo vệ đức tin.

64. H. Những ai được lãnh Bí tích Thêm Sức?

T. Những người đã được rửa tội, đến tuổi khôn, sạch tội trọng, học giáo lý đầy đủ và quyết sống đúng bổn phận Kitô hữu. Ngoài ra, cần có người đỡ đầu.

65. H. Những ai là thừa tác viên của Bí tích Thêm Sức?

T. Thừa tác viên của Bí tích Thêm Sức thông thường là giám mục và những linh mục được chỉ định; nhưng trong trường hợp khẩn cấp thì bất cứ linh mục nào cũng đều có nhiệm vụ ban bí tích này.

66. H. Người lãnh Bí tích Thêm Sức có những bổn phận nào?

T. Người lãnh Bí tích Thêm Sức có những bổn phận này:

- Một là nỗ lực thi hành Lời Chúa trong đời sống thường ngày;

- Hai là góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng;

- Ba là tích cực giới thiệu Chúa cho mọi người.

Phần III. ĐỜI SỐNG MỚI TRONG CHÚA KITÔ

Bài 13: NHÂN ĐỨC

67. H. Nhân đức là gì?
T.  Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và bền vững để làm điều thiện.

68. H. Có mấy thứ nhân đức?

T. Có hai thứ nhân đức:

- Một là nhân đức nhân bản;

- Hai là nhân đức đối thần.
69. H. Có mấy nhân đức nhân bản?
T.  Có nhiều nhân đức nhân bản, trong đó có bốn nhân đức chính là khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. [379]
70. H. Nhân đức đối thần là gì?
T. Nhân đức đối thần là nhân đức siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho người Kitô hữu, để giúp họ trực tiếp đến với Thiên Chúa, hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời. [384]

71. H. Có mấy nhân đức đối thần?
H.  Có ba nhân đức đối thần là đức tin, đức cậy và đức mến.

Bài 14: TỘI

72. H. Tội trọng là gì?

T. Tội trọng là cố tình phạm Luật Thiên Chúa trong những điều quan trọng mà chúng ta đã kịp suy.

73. H. Tội trọng làm hại chúng ta thế nào?
T.  Tội trọng làm mất tình nghĩa giữa chúng ta với Thiên Chúa và nếu không hoán cải, chúng ta phải xa cách Ngài đời đời.

74. H. Khi lỡ phạm tội trọng thì phải làm gì?

T. Phải thực lòng thống hối và lo liệu đi xưng tội ngay, đồng thời dùng mọi phương thế để không tái phạm nữa.
75. H. Tội nhẹ là gì?

T. Tội nhẹ là phạm một điều luật nhẹ hoặc một điều quan trọng, nhưng chưa kịp suy biết hay chưa hoàn toàn ưng theo.

76. H. Các thói xấu có liên hệ với những mối tội nào?
T.  Các thói xấu có liên hệ với bảy mối tội đầu:

- Một là kiêu ngạo;

- Hai là hà tiện;

- Ba là dâm ô;

- Bốn là hờn giận;

- Năm là mê ăn uống;

- Sáu là ghen ghét;

- Bảy là lười biếng.

MƯỜI ĐIỀU RĂN

Bài 15:  Điều răn thứ nhất: Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa

77. H. Điều răn thứ nhất dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ nhất dạy chúng ta phải thờ phượng một Thiên Chúa và kính mến Ngài trên hết mọi sự. [442]

78. H. Chúng ta phải tin kính Thiên Chúa thế nào?
T. Chúng ta phải tin kính Thiên Chúa hết lòng, không được nghi ngờ hoặc chối bỏ những gì Ngài đã mạc khải và Hội Thánh truyền dạy. [442]

79. H. Chúng ta phải làm gì để lớn lên trong đức tin?
T. Chúng ta phải học hỏi giáo lý, siêng năng cầu nguyện, sống và thông truyền đức tin. [GLHTCG 2088]
80. H. Có những tội nào nghịch lại đức tin?
T. Có những tội này:
  - Một là thờ ơ không chịu tìm hiểu các chân lý mạc khải;
  - Hai là cố ý nghi ngờ hoặc chối bỏ các chân lý ấy, mà trở thành rối đạo, bỏ đạo hoặc ly khai khỏi Hội Thánh. [442]

Bài 16: Điều răn thứ hai: Tôn kính Danh Thiên Chúa

81. H. Điều răn thứ hai dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ hai dạy chúng ta phải tôn kính Danh Chúa, vì Danh Ngài là Thánh. [447]

82. H.  Có những tội nào nghịch lại điều răn thứ hai?
T. Có những tội này:
  - Một là lấy Danh Chúa làm chứng cho tội ác như thề gian, bội thề;
  - Hai là sử dụng Danh Chúa cách bất xứng như kêu tên Chúa vô cớ, lộng ngôn, nguyền rủa và không tuân giữ những lời hứa nhân danh Chúa. [447]

Bài 17: Điều răn thứ ba: Thánh hóa ngày Chúa Nhật

83. H. Điều răn thứ ba dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ ba dạy chúng ta phải thánh hóa này Chúa Nhật và các ngày lễ buộc. [453]
84. H. Chúa Nhật nghĩa là gì?
T. Chúa Nhật là ngày của Chúa theo hai nghĩa này:

- Một là nhắc nhở việc sáng tạo mới, được thực hiện nhờ cuộc Phục sinh của Đức Kitô;

- Hai là hoàn tất ý nghĩa ngày lễ nghỉ của dân Do Thái và loan báo sự nghỉ ngơi muôn đời nơi Thiên Chúa. [452]
85. H. Chúng ta phải tham dự Thánh lễ Chúa Nhật thế nào cho đúng luật Hội Thánh?

T.  Chúng ta phải tích cực tham dự Thánh lễ từ đầu đến cuối. Ai cố tình bỏ lễ Chúa Nhật mà không có lý do chính đáng thì mắc tội trọng. [GLHTCG 2180-2181]

Bài 18: Điều răn thứ bốn: Thảo kính cha mẹ

86. H. Điều răn thứ bốn dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ bốn dạy chúng ta thảo kính cha mẹ và những người được Chúa trao quyền để mưu ích cho chúng ta. [455]

87. H. Con cái có những bổn phận nào đối với cha mẹ?
T. Con cái có bổn phận hiếu thảo, biết ơn và vâng phục cha mẹ, đồng thời phải trợ giúp các ngài về vật chất cũng như tinh thần, khi còn sống cũng như khi đã qua đời. [459]

88. H. Anh chị em có bổn phận nào đối với nhau?

T. Anh chị em trong gia đình phải biết kính trên nhuòng dưới, yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

89. H. Chúng ta có bổn phận nào đối với những người trong gia tộc?

T. Chúng ta có bổn phận tỏ lòng biết ơn, kính trọng, yêu mếnn giúp đỡ và cầu nguyện cho mọi người trong gia tộc còn sống cũng như đã qua đời.

Bài 19: Điều răn thứ năm: Tôn trọng sự sống

90. H. Điều răn thứ năm dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ năm dạy chúng ta phải tôn trọng sự sống con người mà Chúa đã ban, vì chỉ mình Ngài mới là chủ và có quyền trên sự sống ấy mà thôi. [466]

91. H. Có những tội nào nghịch lại điều răn thứ năm?
T. Có những tội này:

- Một là cố ý giết người;

- Hai là trực tiếp hay cộng tác vào việc phá thai;

- Ba là làm cho chết êm dịu;

- Bốn là tự sát hay cộng tác vào việc ấy;

- Năm là làm gương xấu khiến người khác phạm tội trọng;

- Sáu là phá hoại hoặc gây nguy hiểm cho sức khỏe của mình và của người khác. [470]

Bài 20: Điều răn thứ sáu và thứ chín: Sống trong sạch

92. H. Điều răn thứ sáu dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ sáu dạy chúng ta giữ đức trong sạch trong tư tưởng, lời nói và việc làm.

93. H. Điều răn thứ chín dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ chín dạy chúng ta phải chiến thắng đam mê xác thịt, trong tư tưởng cũng như trong ước muốn.

94. H. Tại sao ta phải giữ đức trong sạch?

T. Ta phải giữ đức trong sạch vì ta đã được tạo thành giống hình ảnh Chúa, vì ta là chi thể mầu nhiệm Chúa Kitô, và thân xác ta là đền thờ Chúa Thánh Thần.

95. H. Điều răn thứ sáu cấm những sự gì?

T.  Điều răn thứ sáu cấm những tội dâm dục bề ngoài, như nói năng, nhìn xem hay làm những điều ô uế tục tỉu…một mình hay với người khác.

96. H. Muốn giữ tâm hồn trong sạch ta phải làm gì?

T. Chúng ta phải giữ những việc này:

- Một là chuyên chăm cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và trông cậy vào ơn Chúa.

- Hai là sáng suốt làm chủ ngũ quan và trí tưởng tượng;

- Ba là sống đoan trang trong ăn mặc, nói năng, cư xử với người khác và xa lánh dịp tội.

- Bốn là năng đọc Lời Chúa và sách báo lành mạnh.

97. H. Có những tội nào nghịch lại đức khiết tịnh?
T.  Có những tội này:

- Một là nhìn ngắm hoặc nghĩ tưởng những điều dâm ô;

- Hai là nói những lời thô tục hoặc ám chỉ ý xấu và phổ biến phim ảnh sách báo khiêu dâm;

- Ba là tìm thú vui nhục dục một mình hoặc với người khác ngoài cuộc sống hôn nhân;

- Bốn là có hành vi đồng tính luyến ái;

- Năm là lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên. [492]

Bài 21: Điều răn thứ bảy: Giữ sự công bằng

98. H. Điều răn thứ bảy đòi buộc những gì?
T. Điều răn thứ bảy đòi buộc những điều này:
- Một là tôn trọng của cải người khác;

- Hai là giữ các lời hứa đã cam kết;

- Ba là đền bù thiệt hại đã gây ra và trả lại cho người khác những gì đã lấy;

- Bốn là sử dụng khôn ngoan và chừng mực những tài nguyên thiên nhiên. [506]

99. H. Điều răn thứ bảy cấm những điều gì?
T. Điều răn thứ bảy cấm trộm cắp, trả lương không công bằng, đầu cơ tích trữ, giả mạo chi phiếu hay hóa đơn, gian lận, trốn thuế, cho vay nặng lãi, tham nhũng, lạm dụng hoặc lãng phí của công, cố ý phá hoại tài sản của công và làm không tốt công việc bổn phận. [508]

Bài 22: Điều răn thứ tám: Tôn trọng sự thật


100. H. Điều răn thứ tám dạy chúng ta sự gì?

T. Điều răn thứ tám dạy chúng ta sống thành thật, làm chứng cho chân lý và tôn trọng danh dự của mọi người.

101. H. Vì sao chúng ta phải sống thành thật?
T. Chúng ta phải sống thành thật vì ba lẽ này:

- Một là Thiên Chúa là Đấng Chân Thật;

- Hai là sự thành thật làm tăng giá trị con người;

- Ba là sự thành thật rất cần cho đời sống chung.
102. H. Có những tội nào nghịch lại điều răn thứ tám?
T. Có những tội này:

- Một là làm chứng gian, thề gian và nói dối;

- Hai là xét đoán hồ đồ, nói xấu, vu khống và bôi nhọ;

- Ba là nịnh hót, tâng bốc và xu nịnh nhằm thủ lợi bất chính.

Bài 23: Điều răn thứ mười: Không tham của người

103. H. Điều răn thứ mười dạy chúng ta sự gì?
T. Điều răn thứ mười dạy chúng ta phải tôn trọng tài sản của người khác, không ganh tị, tham lam và ham muốn của cải một cách bất chính. [531]

 

Phần IV. ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN

Bài 24: CẦU NGUYỆN

104. H. Tại sao ta phải cầu nguyện ? [443]

 

T. Vì cầu nguyện liên kết ta với Thiên Chúa là nguồn sự sống. Hơn nữa, Người vẫn hằng kêu mời và chờ đợi ta đến thưa chuyện với Người.

105. H. Thời điểm nào thích hợp cho việc cầu nguyện?

T. Mọi thời điểm đều thích hợp cho việc cầu nguyện, nhưng để nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, Hội Thánh đề nghị các Kitô hữu những thời điểm sau: ban sáng và ban tối, trước và sau bữa ăn, Phụng vụ Các Giờ Kinh, Thánh lễ, kinh Mân côi, các lễ mừng trong năm Phụng vụ.

106. H. Chúa Giêsu có dạy ta kinh nào để cầu nguyện không?

T. Có, Chúa Giêsu dạy ta kinh Lạy Cha. (GLHT. 2759)

 

 

 

 

 

 

 

B. CÁC KINH CẦN THUỘC

1. KINH SẤP MÌNH

Lạy Chúa, con sấp mình xuống trước mặt Chúa, con tin thật Chúa ở khắp mọi nơi, thông biết mọi sự, hằng xem thấy con, hằng nghe lời con cầu nguyện. Xin Chúa rất nhân từ hãy đoái xem sự nghèo ngặt con, và nhậm lời con nguyện. Lạy Chúa, xin hãy mở miệng lưỡi con ra thì con sẽ cao rao những lời ngợi khen Chúa.

2. KINH DẤU THÁNH GIÁ (KÉP)

Lạy Chúa chúng con, vì dấu Thánh giá, xin chữa chúng con cho khỏi kẻ thù. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

3. KINH TRUYỀN TIN (đọc trong mùa thường niên)

- Đức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần truyền tin cho Rất Thánh Đức Bà Maria

+ Và Rất Thánh Đức Bà chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần

- Kính mừng Maria……         + Thánh Maria………

- Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời

+ Tôi xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền

- Kính mừng Maria……         + Thánh Maria………

- Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người

+ Và ở cùng chúng con

- Kính mừng Maria……         + Thánh Maria………

- Lạy Rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời xin cầu cho chúng con

+ Đáng chịu lấy những sự Chúa Kitô đã hứa

Lời nguyện: Lạy Chúa, chúng con xin Chúa ban ơn xuống trong linh hồn chúng con là kẻ đã nhờ lời Thánh Thiên Thần truyền, mà biết thật Chúa Kitô là Con Chúa đã xuống thế làm người, thì xin vì công ơn Con Chúa chịu nạn chịu chết trên cây Thánh giá, cho chúng con ngày sau khi sống lại được lên nơi vinh hiển, cũng vì công nghiệp Chúa Kitô là Chúa chúng con. Amen.

4. KINH LẠY NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG

(Đọc trong mùa Phục Sinh)

Xướng: Lạy Nữ Vương Thiên Đàng hãy vui mừng - Alleluia

Đáp: Vì Đấng Mẹ đã đáng cưu mang trong lòng - Alleluia

Xướng: Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa - Alleluia

Đáp: Xin cầu cùng Chúa cho chúng con - Alleluia

Xướng: Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Maria hãy hỉ hoan khoái lạc - Alleluia

Đáp: Vì Chúa đã sống lại thật - Alleluia

Lạy Chúa là Đấng đã làm cho thiên hạ vui mừng quá bội, bởi Đức Chúa Giêsu Kitô là Con Chúa cùng là Chúa chúng con đã sống lại. Xin vì Đức Nữ Đồng Trinh Maria là Thánh Mẫu Người nguyện cầu cho chúng con được hưởng phúc vui vẻ hằng sống đời đời. Vì công nghiệp Chúa Kitô là Chúa chúng con. Amen.

 

5. KINH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN

Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con. Chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.

- Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

6. KINH TIN

Lạy Chúa, con tin thật có một Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt vô cùng. Con lại tin thật Đức Chúa Trời có ba Ngôi, mà Ngôi Thứ Hai đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết mà chuộc tội cho thiên hạ. Bấy nhiêu điều ấy cùng các điều Hội thánh dạy thì con tin vững vàng, vì Chúa là Đấng thông minh và chân thật vô cùng, đã phán truyền cho Hội thánh. Amen.

7. KINH CẬY

Lạy Chúa, con trông cậy vững vàng vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu thì Chúa sẽ ban ơn cho con giữ đạo nên ở đời này, cho ngày sau được lên thiên đàng xem thấy mặt Đức Chúa Trời hưởng phúc đời đời, vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng, đã phán hứa sự ấy chẳng có lẽ nào sai được. Amen.

8. KINH KÍNH MẾN

Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.

9. KINH THỜ LẠY (Đọc ban sáng)    

Lạy Chúa, con là vật phàm hèn cùng là không trước mặt Chúa, con hết lòng thờ lạy và nhận thật Chúa là đầu cội rễ mọi sự, là cùng sau hết mọi loài, Chúa đã dựng nên con cùng thật là Chúa con nữa, thì con xin dâng linh hồn và xác, cùng mọi sự trong ngoài con ở trong tay Chúa. Amen.

10. KINH ĐỘI ƠN (Đọc ban sáng)

Lạy Chúa, con đội ơn Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho con xưa nay, nhất là đã dựng nên con và cho Con Chúa chịu nạn chịu chết mà cứu chuộc con, lại chọn lấy con làm con Hội Thánh nữa. Amen.

11. KINH PHÙ HỘ (Đọc ban sáng)

Chúng con thờ lạy ngợi khen Chúa là Đấng có phép tắc vô cùng, đã thương để chúng con đến sớm mai nay, thì xin Chúa xuống ơn phù hộ chúng con trót ngày hôm nay khỏi sa phạm tội gì. Lại xin Chúa sửa sự lo, lời nói, việc làm chúng con hằng nên trọn lành theo ý Chúa. Vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu, là Đấng hằng sống hằng trị cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần đời đời chẳng cùng. Amen.

12. KINH SÁNG SOI

Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.

13. KINH HÃY NHỚ

Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay, chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời. Nhân vì sự ấy, con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương và nhậm lời con cùng. Amen.

14. KINH XÉT MÌNH

Lạy Chúa là sự sáng linh hồn con, xin soi sáng cho con được biết mọi tội con đã phạm trong ngày hôm nay, hoặc lo, hoặc nói, hoặc làm, điều gì lỗi nghĩa cùng Chúa. Con lại xin Chúa vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu, ban ơn cho con được ăn năn ghét tội cùng dốc lòng chừa thật. Amen.

15. KINH ĂN NĂN TỘI

Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con, và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự; con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen.

PHÉP LẦN HẠT NGẮM TẮT

16. NĂM SỰ VUI

- Thứ nhất thì ngắm: Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai. Ta hãy xin cho được ở khiêm nhường

- Thứ hai thì ngắm: Đức Bà đi viếng Bà Thánh I-sa-ve. Ta hãy xin cho được lòng yêu người.

- Thứ ba thì ngắm: Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn.

- Thứ bốn thì ngắm: Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu trong Đền thánh. Ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.

- Thứ năm thì ngắm: Đức Bà tìm được Đức Chúa Giêsu trong Đền thánh. Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn.

17. NĂM SỰ SÁNG

- Thứ nhất thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con Thiên Chúa.

- Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu làm phép lạ tại tiệc cưới Cana. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa.

 - Thứ ba thì ngắm: Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được tin vào lòng Chúa thương xót và siêng năng lãnh nhận Bí tích Giao hòa.

- Thứ bốn thì ngắm: Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được biến đổi nhờ ơn Chúa Thánh Thần

- Thứ năm thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Ta hãy xin cho được sốt sáng tham dự Thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Ngài.

18. NĂM SỰ THƯƠNG

- Thứ nhất thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu. Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên.

- Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu đánh đòn. Ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng.

 - Thứ ba thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng.

- Thứ bốn thì ngắm: Đức Chúa Giêsu vác cây Thánh giá. Ta hãy xin cho được vác Thánh giá theo chân Chúa.

- Thứ năm thì ngắm: Đức Chúa Giêsu chịu chết trên cây Thánh giá. Ta hãy xin đóng đinh tính xác thịt vào Thánh giá Chúa.

19. NĂM SỰ MỪNG

- Thứ nhất thì ngắm: Đức Chúa Giêsu sống lại. Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn.

- Thứ hai thì ngắm: Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời

- Thứ ba thì ngắm: Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ta hãy xin cho được lòng đầy dẫy mọi ơn Đức Chúa Thánh Thần.

- Thứ bốn thì ngắm: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ

- Thứ năm thì ngắm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Ta hãy xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên đàng.

 

20. LẠY CHÚA THÁNH THẦN! XIN NGÀI  NGỰ ĐẾN

(Veni Sancte Spiritus)

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến,/

và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra!

Lạy Cha kẻ cơ bần,/ xin Ngài ngự đến;/

Đấng ban ân huệ,/ Đấng soi sáng tâm hồn,/

xin ngự đến!/ Lạy Đấng an ủi tuyệt vời,/

là khách trọ hiền lương của tâm hồn,/

là Đấng uỷ lạo dịu dàng./

Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than,/

là niềm an ủi trong lúc lệ rơi./

Ôi sự sáng chứa chan hồng phúc,/

xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn tín hữu của Ngài./

Nếu không có Chúa trợ phù,/

trong con người còn chi thanh khiết,/

không còn chi vô tội./

Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn,/ tưới gội chỗ khô khan,/

và chữa cho lành nơi thương tích./

Xin uốn nắn điều cứng cỏi,/

sưởi ấm chỗ lạnh lùng,/ chỉnh đốn lại chỗ trật đường./

Xin Chúa ban cho các tín hữu,/ là những người tin cậy Chúa,/

được ơn bảy nguồn./

Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức,/

được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời. Amen.
Đọc tiếp »

Thơ Sơn Ca Linh - Bùi Công Thấn-Phê bình văn học

 

Khuôn mặt thơ Công giáo đương đại

THƠ SƠN CA LINH

Bùi Công Thuấn

 

***

 

Sơn Ca Linh là bút danh ghi dưới tên những bài thơ của Lm Giuse Trương Đình Hiền [1]. Ngài hiện là Tổng Đại diện Giáo phận Quy Nhơn. Tôi cần giới thiệu rõ điều này, bởi vì là một Linh mục, khi diễn ngôn, nhà thơ Sơn Ca Linh sẽ phải tự giới hạn đề tài, phạm vi phản ánh cuộc sống, và thái độ với hiện thực. Linh mục là người của Chúa, là hiện thân của Đức Giêsu giữa đời thường hôm nay, vì thế một nhà thơ Linh mục không thể viết như một người thế tục. Sự chọn lựa đề tài, nội dung, cách thể hiện tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ Linh mục đều kín múc từ Kinh thánh và hướng đến mục đích loan báo Tin Mừng. Nhưng một nhà thơ loan báo Tin Mừng sẽ khác với một Linh mục giảng Kinh thánh trên tòa giảng.

Tôi sẽ chỉ nói đến phẩm chất thi nhân của Sơn Ca Linh trong thơ. Tôi đã đọc hơn 200 bài thơ của Sơn Ca Linh đăng trên trang web của Giáo phận Quy Nhơn. Quả thực thơ Sơn Ca Linh có nhiều điều cuốn hút tôi. Đó là một cánh đồng nghệ thuật thật phong phú sắc màu, trên đó hiện lên khuôn mặt nhà thơ vừa thâm trầm sâu sắc vừa dung dị hồn nhiên và có nhiều đường nét mới lạ.

CÁNH ĐỒNG NGHỆ THUẬT ĐA SẮC MÀU

Phẩm chất thi nhân của một người làm thơ (nhà thơ) được xác định trước hết là ở sự sáng tạo những tứ thơ mới lạ giàu thẩm mỹ, ở những quan sát tinh tế, những xúc cảm mãnh liệt của một trái tim ngân rung tình yêu Con người và ở khả năng làm mới ngôn ngữ để thể hiện Cái Đẹp. Nhà thơ, người sáng tạo Cái Đẹp. Thợ thơ (chữ của Nam Cao), là người làm theo quán tính bắt chước, hô những khẩu hiệu nhạt nhẽo.

Thơ Sơn Ca Linh có những hạt châu ngọc của ca dao. Bài ca dao “Trâu ơi” là một bài ca dân dã rất đẹp cả về hình tượng và tư tưởng. Sơn Ca Linh có bài “Gọi trâu” cũng với vẻ đẹp trân quý như vậy. Sự sáng tạo là ở khả năng khám phá và nâng cao tư tưởng cánh đồng cỏ với con trâu trong thơ ca dân tộc thành cánh đồng truyền giáo.

GỌI TRÂU
(Chút cảm nhận về “Trâu” và “cánh đồng truyền giáo”)

“Trâu ơi ta bảo trâu nầy,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Kẻo mùa xuân lại đi qua,
Hạ về đông lại nước ra đầy đồng…
Cây xoan vừa mới trổ bông,
Bờ quê vạn thọ đã hồng môi xinh.
Gió mùa xuân nắng thuỷ tinh,
Luống sâu chân bước có mình với ta.
Bùn lầy nước đọng nẻo xa,
Con chim én liệng reo ca lưng trời.
Bây giờ vất vả đầy vơi,
Mùa lên trĩu hạt… trâu ơi, ngại gì!

Thơ Sơn Ca Linh cũng có những bài mang vẻ đẹp của thơ Lãng mạn: giàu có về nhạc điệu. Tứ thơ đầy sắc màu và cái tôi trữ tình tha thiết mênh mang. Sự khác biệt với thơ Lãng mạn là ở chỗ thơ Lãng mạn đẩy Cái Tôi cá nhân lên mức cực đoan, còn thơ lãng mạn của Sơn Ca Linh lại lấp lánh vẻ đẹp Đời Dâng hiến.

Yên lặng lắm mới nghe lời thỏ thẻ,
Và lắng tai mới rõ tiếng thì thầm.
Có ai qua xin bước dùm bước nhẹ,
Kẻo giật mình mà cỏ lại lặng câm!...
           
(Lời thì thầm của cỏ)

Mỗi mùa thu trở lại,
Ta nghe rộn ràng những bước đi xa…
Chẳng phải lá vàng, như những khúc tình ca,
Về cội đất như một lần vĩnh biệt.

Chẳng phải sông kia, lời tạ tình tha thiết,
Xa biệt bãi bờ để tan biến giữa đại dương.
Chẳng phải áng mây lãng đãng tím hoàng hôn,
Chợt mất hút cuối chân trời biêng biếc…
           
(Mùa thu và những chuyến đi xa - Mến tặng các nữ tu qua những lần “chuyển xứ” vào mỗi dịp mùa thu-tháng 9)

Sơn Linh Ca cũng có những bài Đường luật thất ngôn rất chuẩn mực về niêm luật nhưng lại rất mới ở nội dung Kinh thánh. Đường luật cổ điển đầy dẫy điển tích Trung Quốc. Đường luật của Sơn Ca Linh dung dị với những điển ngữ “nhà đạo”.

“Phố thánh vườn thiêng” rạng đỉnh đồi (1),
Trinh nguyên e ấp đoá “Môi Khôi” (2),
Rạng ngời sắc thắm soi muôn cõi,
Bát ngát hương thiêng toả khắp nơi.
“Bốn Sự nhiệm mầu” (3) ơn Cứu độ,
“Mười Kinh thánh đức” (4) phúc Tin Vui.
Hoa hồng muôn cánh dung nhan Mẹ,
Ngập lối linh ân mãi tận trời !
            (Đường luật Mân Côi)[2]

Đặc sắc thơ Sơn Linh Ca là những bài thơ tự do. Những bài thơ này phá cách về số câu số chữ nhưng vẫn giữ âm điệu của thể thơ 7- 8 chữ. Bài thơ có cấu trúc lập luận. Có khi là lập luận tương phản: tương phản giữa Kinh thánh và thế tục; có khi là lập luận theo tuyến tính “xưa-nay”; nhiều bài có cấu trúc quy nạp, các luận cứ dẫn đến kết luận ở cuối bài. Sơn Ca Linh kết hợp cấu trúc lập luận với tự sự (kể truyện) và “cảm nhận” vấn đề, vì thế bài thơ được kiến tạo đa tầng: kết nối lịch sử với hiện tại, kết nối Kinh thánh với cuộc đời, kết nối những vấn đề chung với “cảm nhận” riêng của tác giả. Những bài thơ này định vị một phong cách thơ rất riêng của Sơn Ca Linh so với thơ Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự, Lê Đình Bảng.

Sơn Ca Linh cũng khai phá một con đường nghệ thuật mới mẻ so với thể “Diễn ca” và thể “Huấn ca” truyền thống. Con đường này vượt trội so với kiểu “Thơ ca cầu nguyện” mà nhiều tác giả giáo dân hiện nay đang theo đuổi. “Diễn ca” là diễn Kinh thánh (văn xuôi) thành ca vè để dễ học dễ thuộc. “Thơ ca cầu nguyện” cũng diễn ca Kinh thánh, từ đó viết thêm phần cầu nguyện (thường là theo một công thức nhất định). Cả hai lối thơ “Diễn ca” và “thơ ca cầu nguyện” đòi buộc người viết phải giữ trung thực ý và lời của Kinh Thánh, vì đó là Lời Chúa. Nếu viết khác (chẳng hạn, chỉ lấy ý không giữ Lời) thì sẽ là sự xuyên tạc. “Cảm nhận” cho phép nhà thơ hoàn toàn xây dựng hình tượng, kiến tạo tác phẩm theo ý của mình. Sức hấp dẫn của thơ Sơn Ca Linh chính là ở những “cảm nhận” rất riêng, rất mới và những sáng tạo có tính đột phá này. Xin đọc:

ĐÊM, VÀ NHỮNG BƯỚC CHÂN BUỒN !
(Chút cảm nhận Tin Mừng thứ Ba Tuần Thánh : Ga 13,21-33.36-38)

Trang Tin Mừng “Thứ Ba Tuần Thánh”,
Tông Đồ Gioan kể câu chuyện sắp vào đêm:
“Nhóm Mười Hai” với Thầy, bữa cơm chiều ấm êm,
người tựa ngực, kẻ kề vai, chén thù chén tạc…

Đang giữa bữa bỗng mọi người ngơ ngác
“Giữa anh em đang có kẻ nộp Thầy”!
Không lẽ… Không lẽ…. chính là đây?
“Người nhận chính tấm bánh Thầy trao đó!”

Tiếng cười vẫn râm ran, giờ bỏ ngỏ…
Khi Giu-đa vừa lặng lẽ ra đi.
Hoàng hôn đen chợt ùa đến tức thì,
Theo bén gót nhạt nhoà sâu mất hút !

Thế giới muôn nơi, vẫn những đêm dài côi cút,
Những bữa cơm chiều của phản bội, chia xa.
Những bước liu xiu ngập bóng tối lạc loà,
Chồng bỏ vợ, mẹ lìa con, thầy trò chối bỏ…

Chuyện “Bữa cơm chiều” của ngày xưa còn đó,
Bước chân buồn Giu-đa lại trở về!
“Mái ấm Tiệc Ly”, câu chuyện tình duyên nợ!
Nhắc ai đừng chọn “bóng tối chia ly”!
           (Thứ Ba Tuần Thánh 2019)

Ba khổ thơ đầu là kể chuyện Kinh thánh (tự sự), là luận cứ thứ nhất. Khổ thơ thứ tư kể chuyện thế giới hôm nay, là luận cứ thứ hai (tuyến tính thời gian “xưa-nay”). Hai câu kết là chủ đề. Luận cứ 1 và luận cứ 2 dẫn đến chủ đề, đó là cấu trúc quy nạp. Nhạc thơ là nhạc của thể thơ 7-8 chữ phá cách. Bút pháp kể chuyện (tự sự) kết hợp với “cảm nhận” tạo nên sự sinh động của nội dung và sâu sắc về tư tưởng. Khổ thơ thứ 3 là một tứ thơ rất mới lạ gây ấn tượng mạnh. Diễn ngôn của thơ là loan báo Tin Mừng (kể lại chuyện Kinh Thánh) và thuyết phục (không phải là giáo huấn kiểu “Huấn ca”) người đọc tin vào Kinh thánh.

Một đặc sắc khác của thơ Sơn Ca Linh là không có sự xuất hiện chủ thể diễn ngôn (“Cái Tôi”) cá nhân. Điều này rất khác với thơ trữ tình. Nhân vật “Tôi” trong thơ trữ tình che khuất cả bài thơ. Nguyễn Bính: “Nắng mưa là bệnh của trời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. “Tôi” sánh ngang với “trời”. Trong thơ Sơn Ca Linh, nhà thơ (tác giả) hóa thân vào nhân vật, nói tiếng nói của nhân vật. Vì thế tiếng thơ là tiếng nói của đông đảo công chúng. Ta nghe được tiếng của người xưa và tiếng của ngày hôm nay. Thời gian và không gian thơ là một thế giới đồng hiện.

Trong thơ Sơn Ca Linh, khi “Tôi “lên tiếng, có khi là tiếng nói của các tông đồ (Cứ ngỡ là dư ảnh), có khi là tiếng nói của đám đông (Bình minh “ngày thứ nhất trong tuần”), là lời trò chuyện của đôi uyên ương (Thỏ thẻ mùa xuân), là “tụi tui”, một lũ bạn bè lúc nhỏ (Tết và mùi hương hoa cũ; Chuyện kể “Têrêsa nước ra đầy đồng”), là lời của Đức Giêsu (Biết đến bao giờ), lời của “một người khô đạo” (Xin mời Ngài nán lại), lời của bà mẹ buôn gánh bán bưng (Ai sầu hơn ai), lời của công chúng luận tội Giuđa (Nghĩ…tội Giuđa), lời của chậu hoa mãn nguyện vì có một mùa xuân thánh thiện (Tâm sự chậu hoa tết ở nhà thờ), lời của Đức cha Vinc Nguyễn Văn Bản về thăm Làng Sông (Bỗng dưng nghe lời của mẹ); lời của Cái Ta hòa trong nhiều con người (Khúc niệm ca Tuần Thánh; Lời phán xét chiều nay). Cũng có khi Sơn Ca Linh bộc lộ trức tiếp “Cái Tôi trữ tình”, nhưng rất hiếm, nhưng Cái Tôi ấy mang phẩm chất của Đức tin, không phải là “Cái tôi” vị kỷ trong thơ Lãng mạn (Ta mừng tuổi ta; Chiêm niệm; Như cánh hoa vừa rụng; Ta tìm trở lại con đường ấy). Sự đa dạng của “Cái Tôi” trữ tình trong thơ Sơn Ca Linh là một đặc điểm phong cách, tạo nên sự phong phú nghệ thuật của giọng điệu thơ, giọng đa thanh hiện đại.

Xin đọc Dẫu đời anh mang nhiều vết sẹo. Đây là lời tự tình của “Anh” nói với “Em”. Bài thơ xây dựng được hình tượng Đức Giêsu qua một góc “cảm nhận” rất trung thực, nhưng rất lạ. Giọng thơ (giọng của Đức Giêsu) cũng là giọng khác hẳn với những gì người giáo dân quen được nghe Chúa nói trong Kinh thánh (Chúa phán, Chúa nói, Ta bảo thật các ngươi. Người mở miệng dạy họ, Người bảo các ông…): Câu Kinh thánh dùng làm đề từ là: (Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ga 20,17)

Chẳng giấu gì em,
Quá khứ đời anh cả một trời bất hạnh,
Long đong nhiều ngay tự buổi mới sinh.
Giữa mùa đông lạnh máng cỏ hôi tanh,
Mẹ mượn đỡ chút hơi lừa sưởi ấm…

Chưa dứt sữa phải lao lung lận đận,
Theo mẹ cha trôi nổi kiếp di cư.
Hết bị người đời truy sát loại trừ,
Lại phải phận nghèo mồ hôi ướt áo…

Tay chai sạn đổi bát cơm hạt gạo,
Sáng cưa chiều đục, mưa nắng dãi dầu
Kiếp thợ nghèo luôn thiếu trước hụt sau,
Thân bèo bọt mãi trầy vi tróc vảy…

Chẳng giấu gì em,
Tuổi 33 mà công chưa thành danh chưa toại,
Hết bị đồng hương ném đá khinh chê,
Người thông luật, giới tăng lữ, kết án đủ bề,
Cả môn sinh cũng hè nhau chối từ phản bội…

Và cuộc đời anh, bây giờ em thấy đó,
Ghi trên thân mình hằn đủ vết thương đau,
Tay chân, cạnh sườn in vết sẹo sâu,
Là chứng tích của câu chuyện dài “Thập Giá” !

Thân xác phục sinh,
Mà mang toàn vết sẹo, quả là chuyện lạ !
Nhưng lại là chứng tích oai hùng của Vượt Qua.
Dấu tình yêu muôn đời và khắp cõi bao la,
Nên em ơi,
Có yêu anh, tin anh,
Em hãy đón nhận anh với muôn ngàn vết sẹo !
            (Tuần Bát Nhật Phục Sinh 2019)

Ngôn ngữ trong thơ Sơn Ca Linh là ngôn ngữ hướng về công chúng, có nhiều “khẩu ngữ”, có nhiều trích dẫn và đôi khi là “chơi chữ” dân gian, có tính hài. Khi nhà thơ hướng về công chúng, nói chuyện, chia sẻ với công chúng; kêu gọi, cổ vũ công chúng, hoặc nhắc nhở thân tình, thì nguyên tắc giao tiếp cần có là dùng ngôn ngữ của công chúng, ngôn ngữ đương đại, khẩu ngữ. Đây cũng là đặc trưng nổi trội của thơ ca dân gian. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, có sức gây ấn tượng lâu dài. Tuy nhiên, nếu không cẩn trọng, khẩu ngữ sẽ làm mất đi vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca. Điều ấy tùy thuộc vào tài năng của nhà thơ. Bài thơ sau đây, khẩu ngữ được sử dụng rất hay:

“Thích quá đi thôi,
Những cành lá xanh, gần gũi, dung dị tự thuở nào,
Vừa che mát, vừa biểu cảm tâm tình đơn sơ chân chất.

Chúa cũng thích mà,
Chỉ một “chú lừa con”, đâu cần lọng vàng, cờ quạt.
Những cành lá xanh, đủ rồi, cho một cuộc “Giá lâm”!
“Hổng phải sao”, 33 năm trước, nơi hang lừa máng cỏ tối tăm,
Ngài đã đến, đã bỏ ngai trời giáng thế.

Rồi suốt 30 năm,
Cái đục, cái cưa, cái chàng, cái búa…,
Kiếp thợ mộc nghèo, nào “Thượng Đế có từ nan”!
3 năm rao giảng, hết lên bắc lại xuống nam,
Đôi chân đất, nhiều phen đói lòng, khô khát…!
Bên bờ giếng Samari : “Chúa mà xin nước!”
Trên thuyền Phêrô, “ngủ gà ngủ gật”, thấy mà thương!

Chim sẻ trên cây, cánh huệ bên đường,
Hèn chi, Ngài đã mượn làm “dụ ngôn phó thác”!
Vì đã hiểu, quyền lực, giàu sang… chẳng qua là cỏ rác,
Nên Chúa hồn nhiên yêu chuộng kiếp sống nghèo.

Nên đến cuối đường,
phụ nữ, trẻ em, bọn cùng đinh…vung cành lá vang reo:
“Hoan hô Đấng Nhân Danh Chúa mà đến” !...”

                            (Nét hồn nhiên của Chúa)

NHỮNG VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG

Sơn Ca Linh làm thơ về các mùa phụng vụ, về những sự kiện, những sinh hoạt tôn giáo; hoặc những vấn đề đời thường thách thức lương tâm Công giáo. Đó là những “cảm nhận” Kinh thánh mùa Giáng sinh, mùa Phục Sinh, về Đức Mẹ, các thánh; các sinh hoạt mục vụ đời thường như Mừng thụ phong Linh mục, Mừng lễ khấn dòng, về Đời dâng hiến, Khai mạc Năm Thánh, Đức Giám mục thăm mục vụ, Mừng bổn mạng, đưa tiễn người qua đời, Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường và các hiện tượng đời sống hàng ngày như bão lụt, dịch Covid, suy tư về thân phận người phụ nữ, …Mỗi bài thơ thường có một câu Kinh Thánh làm đề từ định hướng người đọc về nội dung, chủ đề thơ, từ đó nhà thơ sáng tạo câu chuyện, xây dựng hình tượng, chọn lựa cách viết và khám phá “sứ điệp’ của Tin Mừng.

Nhưng nếu chỉ là vậy thì thơ Sơn Ca Linh sẽ tan vào dòng thơ “diễn ca”, thơ “Huấn ca” truyền thống, không để lại ấn tượng gì. Xin lưu ý rằng, ngay sau nhan đề bài thơ, tác giả thường ghi: “Chút cảm nhận về sứ điệp Tin Mừng”, “Chút cảm nhận Phục Sinh”, “Chút cảm nghiệm về Chúa Thánh Linh”, “Một thoáng suy niệm về Thánh Giuse”, hoặc “Chút suy tư từ chuyện “cách ly mùa Covid” và “tấm lá của A-đam, E-va”; hoặc “Chiêm niệm”, “Chút hoài niệm về…” , “Chút cảm nhận hoài niệm 45 năm “hải chiến hoàng sa”nghĩa là, thơ Sơn Linh Ca không phải chỉ là “diễn ca”, mà là thơ tư tưởng, là suy tư về những vấn đề tư tưởng.

Vấn đề tư tưởng căn cốt nhất trong thơ Sơn Ca Linh là sự hiện hữu của Đức Giêsu trong thế giới hôm nay. Đức tin Công giáo dạy chúng ta rằng, Đức Giêsu là đấng Cứu độ duy nhất. Người hiện hữu với chúng ta hàng ngày mãi đến ngày tận thế. Nhưng trong nhận thức xã hội, Đức Giêsu chỉ là con người lịch sử, một nhà sáng lập tôn giáo, một nhà tư tưởng, một nhà cách mạng. Đó là một con người đã sống cách nay hơn 2000 năm, một nhân vật của quá khứ như nhiều nhân vật khác. Sơn Ca Linh đã tập trung khắc họa hình tượng Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, trong mọi cảnh ngộ, chia sẻ mọi nỗi niềm với chúng ta, và đem đến cho chúng ta ơn Cứu rỗi.

Xin đọc

NGÀI ĐI NGANG QUA NƠI ẤY
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua… (Ga 136)

Đâu có tình cờ,
Chẳng phải bàng quan,
Hơn một lần “Ngài đi ngang qua nơi ấy”!

Nơi có những chàng trai mộng đời đang dậy,
Có thuyền, có lưới,
có cha mẹ già có cả người yêu…
Ngài đi ngang qua để lại đôi mắt diễm kiều,
“Con mắt có đuôi” mang tia nhìn vẫy gọi!

Ngài đi ngang qua,
Như để có người “bước theo” và đi tới,
Tìm minh quân, tìm ngọc quý, tìm cả kho tàng…
Hay để có người, khước từ cả “nghĩa tào khang”,
Chỉ để được “ở lại với Ngài” mà thọ giáo!

Ngài đã đi ngang qua trên vạn nẻo đường thế giới,
Để người mù trông thấy, để kẻ què đứng lên,
Để những bọn phần thu, cùi hủi… không tên,
có bánh được chia đều, được tiệc tùng rượu mới…

Ngài đã đi ngang qua để sẵn sàng đứng đợi,
Đợi người con tả tơi phóng đảng quay về,
Đợi Lêvi bỏ bàn thu thuế, đợi tiệc của Giakê
Đợi giọt nước mắt ăn năn của cô nàng gái điếm…

Ngài đi ngang qua,
Để chạnh lòng, để bao dung tìm kiếm,
Tìm những con chiên lạc vai vác mang về,
Để trao con trai
Cho những “bà goá mất con” đẫm lệ tái tê,
Và những “thiếu phụ lộn chồng” được phục hồi phẩm giá…

Ngài đã đi ngang qua,
Để Bắc, Trung, Nam không con là những “Samari xa lạ”,
Và trên vạn nẻo “Giêricô”,
ai cũng chợt nhận mình là lân cận anh em!
Để những người công nhân “giờ thứ mười một” vững tin,
lương bổng đủ đầy trong “Vườn Nho Nước Chúa”…

Và Ngài đã đi qua,
Nơi ấy “Canvê” một chiều nắng úa,
Bụi bặm, hỗn hào, thập giá, máu loang…
Nơi ấy “mộ hoang” một sáng huy hoàng,
Đường Giêrusalem ngập “Tin mừng Sống lại”!

Và hôm nay,
Ngài vẫn đi ngang qua những “con đường xưa ấy”,
Vẫn “ánh mắt có đuôi” vang tiếng gọi mời:
“Hãy đến mà xem”,
Xem gì, chẳng nhà, chẳng chỗ, chẳng nơi…
cả “viên đá gối đầu” cũng không,
vâng, chỉ Ngài thôi, Đường, Sự Thật, Sự Sống!

            Đọc bài thơ, chúng ta nhận ra Đức Giêsu gần gũi biết bao. “Và hôm nay,/ Ngài vẫn đi ngang qua những “con đường xưa ấy”, vẫn vang tiếng gọi mời chúng ta.

Khả năng tổng hợp Kinh thánh của Sơn Linh Ca thật tuyệt vời; những suy niệm, khám phá, cảm nghiệm của nhà thơ đã khắc tạc một cách sống động hình ảnh Đức Giêsu đang ở bên ta mỗi ngày trên vạn nẻo đường. Hình ảnh này, nghiệm suy này làm phong phú hơn những gì người giáo dân được nghe giảng trong nhà thờ về Đức Giêsu, bởi đây là hình tượng văn học, hình tượng tư tưởng-thẩm mỹ, khác với những tín niệm Thần học, triết học về Đức Giêsu. Xin đọc thêm các bài thơ: Nét hồn nhiên của Chúa, Dẫu đời anh mang nhiểu vết sẹo, Dấu chân Ngài trên bãi bờ cuộc sống, Bước chân của đấng Emmanuel, Ta vẫn đợi chờ con, Thiên thu anh vẫn đợi chờ, Nắm lấy bàn tay con, Biết đến bao giờ, Câu chuyện dòng sông, Lỡ một chuyến đò vui, Con thuyền xưa đã quên đâu, Bản xét mình mùa chay, …

Vấn đề tư tưởng thứ hai xuất hiện nhiều trong thơ Sơn Ca Linh là lẽ tử sinh. Nhà thơ chứng kiến cái chết của nhiều người thân yêu và không cầm lòng được:  Cảm nhận về sự chết trong mùa Covid (Chị chết “đẹp” mà ta!), Hạt mầm và bụi tro. Tưởng nhớ 5 linh mục Qui Nhơn liên tiếp qua đời (Bao giờ mới hết mùa “thương”). Ghi niệm ngày cha Phêrô Đặng Son từ giã cõi trần (Anh về). Trong cùng một buổi sáng: Mừng 10 anh em lãnh nhận chức Phó Tế và mừng cha Stêphanô Dương Thành Thăm “về nhà Cha”- Thứ Năm Đầu tháng ngày 1.7.2021 (Đã có một buổi sáng diệu kỳ). Chút cảm nhận về “chuyến về Nhà Cha” của linh mục Luca Nguyễn Huy Kỳ (Mừng anh đã về nhà Cha). Chút cảm nhận về cuộc đời từ sự “qua đời” của cha Hoàng Kym (Một thuở “Hoàng Kim”), Chút cảm nhận về cuộc “ra đi về nhà Cha” của cha Phêrô Hoàng Kym (Một thoáng bây giờ đã thiên thu). Tưởng niệm về anh Gioakim Võ Văn Hào, cựu chức việc - thành viên ban truyền thông giáo xứ Tuy Hoà (Cho một người vừa “đi xa”). Chút suy tư và cảm nhận từ cái chết thương tâm của cô sinh viên tại Điện Biên (Chiếc xương sườn bị đánh cắp). Chia sẻ nỗi buồn của một “Bà Goá Nghèo” vừa mất đứa con trai một tại giáo xứ Hóc Gáo (Lại có một con đường Na-im như thế!), Vọng tưởng những thầy cô đã nằm xuống (Nén hương lặng thầm)…

            Từ xưa đến nay, lẽ tử sinh đã là một vấn đề tư tưởng của tôn giáo và triết học. Lẽ tử sinh nằm trong Khổ đế (chân lý thứ nhất) của Phật giáo: “Sinh, lão, bệnh tử”. Câu thơ của Nguyễn Gia Thiều có sức ám ảnh kỳ lạ: “Trăm năm còn có gì đâu/ Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì”. Lẽ tử sinh cũng là suy tư của triết học Hiện sinh. Hiện sinh là hiện sinh quy tử (Being toward Death-Martin Heidegger). Sống là đi về cõi chết. Lẽ tử sinh cũng nằm trong Thiên mệnh của Nho giáo. Người xưa tin rằng “sống chết có số, phú quý do trời”. Nguyễn Du viết: “Gẫm hay muôn sự tại trời” (Đoạn trường tân thanh). Tất cả những suy tư triết học đó đều dẫn đến bế tắc và hư vô. Sơn Ca Linh nhìn lẽ tử sinh theo Thần học Kitô giáo. Chết là “về nhà Cha”, “quê hương chúng ta ở trên trời”, vì thế, đó là niềm vui. Trong cùng một buổi sáng: Mừng 10 anh em lãnh nhận chức Phó Tế và mừng cha Stêphanô Dương Thành Thăm “về nhà Cha”- thì đó là một bi đát hiện sinh. Nhưng tư tưởng của Sơn Ca Linh thanh thoát vô cùng:

Trên cung Thánh mười anh phủ phục,
Nằm mà nghe khúc nhạc êm đềm.
Nghe tiếng Kinh Cầu ơn “Thánh chức”,
Chết cho đời hiến tế con tim…!

Dưới kia bên nhà hưu lặng lẽ,
Linh mục cuối đời thở hơi ra.
Một chút nữa thôi thành của lễ,
“Về quê hương” mừng lễ Vượt Qua!

Một thoáng người đi, người ở lại,
Tre già, măng mọc, chiếc lá rơi…
Dấn bước vào đời em Phó Tế,
Linh mục anh về chốn nghỉ ngơi!

Cũng cuộc hành hương về vĩnh cửu,
Chồi lên xanh nụ, hạt lúa rơi…
Trẻ hát bài ca yêu cuộc sống,
Già vui mục nát giữa cuộc đời!

Nắng vẫn lên, vẫn rừng thay lá,
Cổ lục thêm buổi sáng diệu kỳ!
Mồng một thứ Năm đầu tháng Bảy,
Sống chết chia đều bữa Tiệc Ly!

            (Đã có một buổi sáng diệu kỳ)

Điều diệu kỳ là ở chỗ tử sinh là quy luật phát triển của cuộc sống, càng diệu kỳ hơn

chính cái chết của đức Giêsu đem đến sự sống cho nhân loại. Những tư tưởng như thế, triết học không vươn tới được.

“…Và Anh đã ra đi, như ngọn đèn dầu lặng lẽ,
Như cánh chim vừa mất hút cõi trời xa!
Đúng hơn, như một người hành lữ mới về nhà,
Sau một chuỗi lênh đênh biển đời vừa bỏ lại.

Thế tạm mà, có chi là mãi mãi,
Tiễn xác Anh về với cát bụi thời gian…
Và hồn Anh cập bến đỗ thiên đàng,
Mừng Anh đã về nhà, nhà Cha đang đón đợi!”

            (Mừng anh đã về nhà Cha-Chút cảm nhận về “chuyến về Nhà Cha” của linh mục Luca Nguyễn Huy Kỳ )

Một vấn đề khác cũng đè nặng trong tim nhà thơ Sơn Ca Linh là vấn đề về thân phận người phụ nữ. Cái nhìn của Sơn Ca Linh là cái nhìn có tầm lịch sử và tư tưởng, cái nhìn của một tấm lòng xót thương âu lo vô bờ (xin đọc: Người phụ nữ Việt Nam da vàng).

Và xin đọc:

CHIẾC XƯƠNG SƯỜN BỊ ĐÁNH CẮP
(Chút suy tư và cảm nhận từ cái chết thương tâm của cô sinh viên tại Điện Biên)

Có phải em,
ngay từ đầu không được tạo nên bằng đất sét?
Mà chỉ là một cái xương sườn,
Xương của một thằng đàn ông bị đánh cắp
Khi đang miệt mài trong giấc ngủ trưa?

Vì thế nên em,
Dẫu quá lời, “chỉ một của dư thừa”,
Là “thứ phẩm” của một thân phận người “nguyên bản”.
Xương sườn mà : thứ bảo vệ của cơ phần nội tạng,
Cho tim gan, phèo phổi an toàn…
Là mái che, phên dậu sẵn sàng,
Để đón lấy những trận đòn, vết đâm, cú đấm…!

Chỉ là xương thôi mà,
Nên cứ phải làm thân cò bán bưng buôn gánh,
Làm con sen, đứa ở, dậy sớm, thức khuya.
Mang nặng, đẻ đau, cay đắng…dư thừa,
Để thằng đàn ông ngẫng đầu dương dương tự đắc.

Là xương,
Nên ở chốn cửa công phải làm thinh im bặt,
Khỏi phải học hành,
xương chỉ cần biết đọc, biết viết đủ rồi!
Lẩn quẩn trong nhà, chỉ kim, bếp núc mà thôi…
Chớ bày đặt nghênh ngang múa rìu đỏng đảnh!

Là xương,
Nên cứ lủi thủi chịu thiệt thòi câm lặng,
Bạo lực gia đình, bị đoạ đày, bị hiếp, bị giết, bất công…
Mà hầu hết là nạn nhân của những thằng đàn ông,
Những “tạo vật”
được vinh dự “mang ảnh hình Thượng Đế”.

Mới đây,
Em, cái xương sườn bị “bỏ quên” giữa những ngày xuân tết,
Lại mấy thằng đàn ông : hiếp, giết, vứt bên đường!
Rồi lại mấy thằng đàn ông sung sướng tưng bừng,
Tự thưởng cho nhau cái trò “thi đua phá án”!

Và rồi, em, mẹ em…
những cái xương sườn bị đánh cắp,
Lại tiếp tục bị đoạ đày,
bị vùi dập trong khổ ải thương đau.
Biết bao giờ, từ đây cho đến mãi ngàn sau,
Những thằng đàn ông,
Học thuộc lời, ứng xử, của một Vị Thầy 2000 năm trước :
Chị hãy ngẫng cao đầu,
đi bình an trên vạn nẻo đường xuôi ngược,
Bởi vì ta không kết án chị đâu”! (Ga 8,1-11)

Bài thơ đặt vấn đề về thân phận người phụ nữ. Đây là một vấn đề tư tưởng mang tính

nhân loại từ ngàn xưa đến nay và “cho mãi đến ngàn sau”. Từ ngày đầu, họ đã là nạn nhân của Những thằng đàn ông. Họ phải chịu bao nhiêu khổ ải đau thương, biết bao giờ mới hết kiếp nạn? Nguyễn Du đã từng kêu thương cho họ: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”(Đoạn trường tân thanh) và ông đưa ra lời giải pháp dựa trên triết học Phật giáo: Nỗi khổ của Thúy Kiều là do “Thân/ Nghiệp”, chỉ có thể giải thoát bằng Tâm, vì “Tâm tức Phật”: “Thiện căn ở tại lòng ta/ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nhà thơ Công giáo Sơn Ca Linh nhìn rõ những nỗi bất hạnh của người phụ nữ là do tội lỗi của “những thằng đàn ông”(tác giả nhắc lại nhiều lần cụm từ: “Những thằng đàn ông”), và đặt vấn đề, những thằng đàn ông phải học theo Chúa, ứng xử yêu thương với phụ nữ, như Chúa đã xót thương và cứu vớt người đàn bà ngoại tình (Ga 8, 1-11).

Thực ra, nếu cho rằng người phụ nữ ngay từ đầu chỉ là một “cái xương sườn bị đánh cắp”, một vật phụ thuộc, một “của dư thừa”, một “thứ phẩm”, một công cụ, nên “Nên cứ phải làm thân cò bán bưng buôn gánh,/ Làm con sen, đứa ở, dậy sớm, thức khuya./ Mang nặng, đẻ đau, cay đắng…dư thừa”, phải chịu câm lặng, dốt nát tù hãm và đọa đày…thì đó là nguyên nhân gần. Cội nguồn nỗi thống khổ của nhân loại nói chung và người phụ nữ nói riêng là tội lỗi. Sách Sáng Thế Ký, chương 2, câu 16-19 nói rõ điều này. Sau khi Adam và Eva ăn trái cấm, Thiên Chúa nói với họ: “Với người đàn bà, Chúa phán: "Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi." Với con người, Chúa phán: "Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó", nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.Ðất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất."

Một vấn đề tư tưởng khác trong thơ Sơn Ca Linh là sự thách thức lương tâm Công giáo trước những vấn đề của hiện thực. Đức Giêsu nói với Philatô rằng: Nước Tôi không thuộc về thế gian này”(Ga 18, 33b-37), nhưng Người cũng nói với các môn đệ: « Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói » (Lc 10, 1-12.17-20). Đó là thực tại đòi buộc nhà thơ phải đối mặt, nói như Nguyễn Du, cuộc sống này là những cuộc bể dâu: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Nhà thơ Sơn Ca Linh đã nghe nhịp đập trái tim mình thế nào trước những thách thức lương tâm trong cuộc sống?

Đây là bức tranh thế giới:

Trong cái “hòm tiền bao la” của thế giới,
Hòm tiền “công đức” để nhân danh: dựng xây, phát triển, trừ tà…
Để dán nhãn: thoa dịu, lau khô những giọt nước mắt xót xa,
Và xây lên những chiếc cầu của tương trợ, cảm thông, nhân ái…

Chiếm chỗ nhiều nhất,
Vẫn là những “núi đô-la” của những đại gia lừng lẫy,
Những Bill Gates, Jeff Bezos, Mark Zuckerberg, Jack Ma…
Cùng với những “hợp đồng chằng chịt, ma quái”…bao la,
Mà “võ bọc mĩ miều” luôn mang tên “cứu nhân độ thế”!

Nên, vẫn mãi là những tên nô lệ:
những trẻ con mang súng ở Phi Châu,
Những người mang ma túy ở Mêhicô…
Những cô gái của nạn buôn người đến từ Venezuella, Trung Quốc…

Thế giới hôm nay,
Người ta chỉ thấy những chuyện nhãn tiền trên Twitter, Facebook…
Người ta tôn thờ thần tượng là những “tỉ phú Đô-la”,
“cặp giò miên man” hoa hậu, “chân sút vàng”, “đẳng cấp đại gia”…
Nên, kẻ mạt hạng, cùng đinh,
Mãi ôm phận “quét lá đa” trong thế giới của lặng thầm quên lãng!
                         (“Trời mới đất mới” và “những đồng xu ten!”)

Và đây là thời mạt pháp:

Tháng Chạp năm nay,
Thế giới bỗng nặng nề
như đêm dài của thuở nào “Hồng thuỷ Nô-e”.
Hận thù chiến tranh,
Những tên lửa xé toạc khoảng trời đêm hoang mạc.
Vỡ vụn tàu bay, mấy trăm thường dân tan xác…
Và rồi, “quê hương chuột túi”
Ngọn hoả hào thiêu rụi điệp trùng muông thú, cỏ cây…

Đêm thôn Hoành, Đồng Xênh chưa kịp sang canh,
Hoả pháo, lựu đạn cay,
gót giày đinh…và những thân người đổ gục.
Nào có phải ai đâu, sao lại cứ phải nồi da xáo thịt ?
Như “Cụ Kình”, Bậc trưởng thượng, bóng cả cây cao,
Những ngày cuối năm,
Tưởng đâu được, bên cháu con, nhấp chén rượu đào,
Oái ăm thay, chết không toàn thây,
Bởi cháu con một lũ hổn hào của một thời mạt pháp!

                  (Bồ câu đã về hay “bóng chim tăm cá:)

            Người đọc có thể nghe được tiếng trái tim nhà thơ đau xót trước thực tại những con người thấp cổ bé miệng bị chà đạp, bị hủy diệt. Nhà thơ không thể kềm lòng không lên tiếng trước những nghịch lý, những bất công, những vô luân vô đạo của “thời mạt pháp”. Dù Nước của Chúa không thuộc về thế gian này, nhưng người mục tử của Chúa đang sống giữa thế gian đầy tội ác thì không thể làm ngơ. Dù vậy, Sơn Linh Ca không để mình bị cuốn vào cõi trần tục, mà đặt trái tim mình trong trái tim thương yêu của Chúa. Từ đó nhìn ra “trời mới đất mới” của Kinh thánh.

Ở ngoài kia, nghe nắng xuân đang bước về vội vã,
Mà sao trong hồn vẫn nghe nhịp bâng khuâng?
Xin hãy bay về, Bồ Câu Thánh Linh, cánh én tin xuân,
Để sự sống, để tình yêu, để hoà bình…
Gieo mầm xanh trên mọi nẻo đường thế giới…!

                              (Bồ câu đã về hay “bóng chim tăm cá)

Nhưng thế giới, “thúng bột trần gian”, men Tin Mừng sẽ dậy,
Bởi những đồng xu,
Vâng, những “đồng xu của cả sự sống, của tình yêu”!
Vũ trụ nầy, thế giới nầy, rồi sẽ nên “trời mới đất mới” mĩ miều,
Bởi những góp nhặt, hy sinh…,
những “đồng xu ten”, tầm thường… rất nhỏ!

            (“Trời mới đất mới” và “những đồng xu ten!”)

THAY LỜI KẾT

            Còn nhiều điều để viết về thơ Sơn Ca Linh (có thể viết một chuyên luận), bởi thơ Sơn Ca Linh là bước phát triển mới cả về tư tưởng và nghệ thuật so với các nhà thơ Công giáo đi trước;  song trong phạm vi một bài viết, tôi xin tạm kết ở đây.

Nói thực lòng, nếu thơ Sơn Ca Linh không hay, không đặt được những vấn đề căn cốt cuộc sống hôm nay thì không thể cuốn hút tôi đọc nổi hơn 200 bài thơ. Tôi rất thích những bài lục bát ca dao như châu ngọc về tình yêu quê hương [3], những bài mang cảm xúc êm đềm sâu lắng như thơ Lãng mạn [4]; những chuyện kể sinh động, trẻ trung hấp dẫn [5], những khúc tráng ca mang khí phách cổ điển [6], những bài thơ tự do mang đặc trưng cốt cách thơ Sơn Ca Linh. Tất nhiên thơ Sơn Ca Linh cũng có những bài đầy ắp ý tưởng song ngôn ngữ hơi xô bồ, cấu trúc lỏng lẻo dài dòng, tính nghị luận lấn át tính hình tượng thẩm mỹ. Dù vậy, tâm trí tôi đã mở ra nhiều điều khi tiếp cận những “Cảm nhận” Kinh thánh từ những bài thơ của Sơn Ca Linh, và một niềm reo vui hân hoan khi đọc được những bài thơ mà trái tim nhà thơ gắn với cuộc sống này, với anh em, với đồng bào và với cả cộng đồng nhân loại, trái tim Emmanuel.

Những bài thơ ấy giúp người đọc Vượt qua bể dâu để hồn mình an lạc trong niềm tin đầy Ánh sáng.

 

Tháng 11/ 2021

______________________

[1] Lm. Giuse Trương Đình Hiền sinh ngày 08-7-1952 tại Trà Câu, Quảng Ngãi. Bút danh: Sơn Ca Linh, Cha sở nhà quê.Tác phẩm đã in: 

     - Ngôn ngữ Tin mừng trong dáng đứng Việt Nam (chủ biên một sưu tập); 

     - Anrê Phú Yên, rực sáng một vì sao (chủ biên một sưu tập); 

     - Linh mục, một cuộc đời mắc nợ (thơ, nhạc, ký)

[2] Ghi chú :
     (1) “Phố thánh vườn thiêng” : Hình ảnh Giáo Hội, Giêrusalem mới, theo gợi ý từ câu Thánh vịnh 122,3 : “Giê-ru-sa-lem khác nào đô thị, được xây nên một khối vẹn toàn.”
     (2) “Môi Khôi” : Tên gọi hoa hồng. Chuỗi Môi Khôi (Rosary) là chuỗi kết bằng những lời kinh như những cánh hoa hồng.
     (3) “Bốn sự Nhiệm mầu” : sự “Vui”, sự “Sáng”, sự “Thương”, sự “Mừng”.
     (4) “Mười kinh Thánh đức” : Kinh Kính Mừng, với phần đầu “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ và Giêsu Con lòng Bà gồm phước lạ” lấy lại những lời trong Tin Mừng Luca với hai sự kiện “Truyền Tin” và “Thăm viếng” (Lc 1, 28.42)

[3]  Những bài Lục bát ca dao: Góc chiều, Cần chi, Gọi trâu, Tràng Mân Côi của mẹ tôi, Một chuyến sang bờ, Chỉ cần một chút tình thôi, Từ đây năm tháng lặng thầm, Nghĩ mà thương chị, Chiêm niệm, Thiên thu anh vẫn đợi chờ

[4] Cảm xúc thơ Lãng mạn: Bóng trưa, Lời thì thầm của cỏ, Vì em đã mang lời khấn nhỏ, Anh về, Tại sao tôi khóc, Em và “chuyện tình tháng bảy”, Mùi hương tháng Chạp, Mùi hương xuân cũ, Người thiếu phụ không chồng, Dáng chị, Mùa thu và những chuyến đi xa, Chiều xuân này vắng mẹ, Dấu “Trường Thăng” đã khép, Bỗng dưng nghe mùi của mẹ

[5] Những bài thơ kể chuyện: Huyền thoại chim họa mi ức đỏ, Giọt nước mắt và đóa “hoa hồng tuyết”, Cổ tích “hạt cải”, Chuyện kể “Têrêsa nước ra đầy đồng”, Huyền thoại màu xanh, Chuyện cổ tích “Bà góa, tầm bánh và đồng xu”, Con nợ Mẹ món quà sinh nhật,

[6] Những khúc tráng ca: Chìm theo vận nước cả mùa xuân, Nghe dòng sông kể chuyện, Ta nhớ mãi “tấm áo lông lạc đà” ngày đó…

 

 

Đọc tiếp »